Trong lĩnh vực nghệ thuật và quảng cáo, màu acrylic đã trở thành một phương tiện sáng tạo được ưa chuộng nhờ những đặc tính vượt trội, sự đa dạng trong lựa chọn cũng như mức giá phù hợp với nhiều đối tượng người dùng. Sự phổ biến rộng rãi này là kết quả của hành trình dài khám phá và đổi mới không ngừng của con người trong việc chế tạo sắc tố – một nỗ lực sáng tạo đã kéo dài xuyên suốt lịch sử nhân loại.
Từ điều chế màu sắc với nguyên liệu tự nhiên
Từ hàng chục nghìn năm trước, con người đã khám phá ra phương pháp kết hợp khoáng chất có màu, đất sét, xương động vật với các chất kết dính tự nhiên từ trứng hay mỡ động vật để tạo nên dung dịch dùng cho việc đánh dấu và tô vẽ. Với bảng màu giới hạn từ thiên nhiên như nâu đất, đen, trắng, vàng và đỏ, loài người nguyên thủy đã ghi lại dấu ấn cuộc sống qua những tác phẩm khắc họa trên thành hang động cách đây 20.000 năm.

Những bức tranh cổ kéo dài khắp hang động Altamira ở miền Bắc Tây Ban Nha, khoảng 20 dặm từ thành phố Santander. Các nhà khoa học cho rằng các bức tranh kéo dài hàng km này được tạo ra bởi người Neanderthals trong suốt 20.000 năm. Ảnh: Tư liệu
Khi xã hội phát triển, đặc biệt tại Hy Lạp và Ai Cập cổ đại, việc vận chuyển nguyên liệu và khoáng sản ngày càng trở nên phổ biến. Nhờ những tiến bộ kỹ thuật, vật liệu có thể được nhập khẩu từ những vùng đất xa xôi để phục vụ cho việc sơn vẽ và trang trí đền thờ. Mặc dù bảng màu dành cho các họa sĩ vẫn còn hạn chế, những phương pháp mới đã dần được phát triển nhằm tạo ra sơn với màu sắc đa dạng hơn. Người xưa trộn cát, vôi và quặng đồng rồi nung nóng hỗn hợp này để tạo thành màu xanh lục mang tên xanh Ai Cập. Mỗi màu sắc đòi hỏi quy trình chế tạo riêng biệt: để có được sắc đỏ rực rỡ, người ta phải trộn thủy ngân – một chất độc hại – với lưu huỳnh rồi nung chúng; trong khi màu trắng được tạo ra bằng cách bịt kín các dải chì trong chậu đất nung chứa giấm và phủ phân động vật lên trên.

Ba trạng thái khác nhau của màu xanh Ai Cập: màu xanh nguyên thủy từ đá frit xanh (bên trái phía trên), màu xanh trong dạng bột (bên trái phía dưới), và sắc xanh khi được vẽ lên mặt nạ xác ướp (phải). Ảnh: Kelsey Museum of Archaeology
Bước sang thế kỷ XV, người ta chọn dầu thay vì dùng trứng làm chất kết dính cho màu – một phát minh được ghi nhận bởi họa sĩ người Flemish – Jan van Eyck. Trong kỹ thuật vẽ do ông phát triển, các lớp sơn dầu từ khô nhanh đến khô chậm sẽ được kết hợp với chất màu đục với các dung môi trong suốt. Những đổi mới này cho phép các họa sĩ tạo ra những tác phẩm chi tiết và chân thực hơn vì sơn dầu có thể pha dễ dàng hơn và áp dụng với những nét cọ lớn.

Tác phẩm Saint Jerome in His Study bởi họa sĩ Jan van Eyck, hiện đang được trưng bày tại bảo tàng Detroit Institute of Arts. Ảnh: Detroit Institute of Arts
Trong giai đoạn các cuộc viễn du từ châu Âu ào ạt diễn ra, vô số tuyến thương mại mới được thiết lập. Cùng với đó, nhiều màu sắc mới được khám phá khi các thương nhân mua bán và trao đổi những chất màu cùng thuốc nhuộm từ khắp thế giới. Một ví dụ điển hình là việc người Tây Ban Nha đưa cochineal về châu Âu – loại thuốc nhuộm màu đỏ mà người Aztec đã sử dụng và sản xuất tại Oaxaca (khi ấy mang tên Tân Tây Ban Nha, nay thuộc Mexico). Chất màu quý giá này được chiết xuất từ côn trùng cái cánh kiến sống ký sinh trên xương rồng, tạo nên sắc đỏ thẫm đặc trưng.

Bộ lạc Aztec ở Mexico đã chế tạo ra một loại thuốc nhuộm màu đỏ bằng cách nghiền nhỏ những con bọ cochineal. Ảnh: Tư liệu
Do mỗi màu sơn đòi hỏi quy trình chế tạo riêng biệt, giá trị của chúng cũng có sự chênh lệch đáng kể. Đắt đỏ nhất trong số đó phải kể đến màu xanh ultramarine – nghĩa là “từ bên kia đại dương” – thậm chí cho đến ngày nay, phiên bản tổng hợp của màu này vẫn có giá cao nhất. Ra đời vào khoảng thế kỷ thứ 10, màu xanh đậm này được tạo ra từ khoáng chất lapis lazuli có nguồn gốc từ Afghanistan – nơi loại đá bán quý này đã và đang được khai thác. Để thu được màu xanh rực rỡ, người ta phải tách chiết bột màu từ những viên quặng lapis lazuli thông qua quy trình tỉ mỉ và phức tạp.

Màu xanh ultramarine xuất phát từ tiếng Latin ultramarinus, nghĩa là “vượt qua biển cả” bởi màu này được nhập khẩu vào châu u từ những mỏ đá ở đông bắc Afghanistan với công lao của các thương gia Ý trong thế kỷ XIV và XV. Ảnh: Tư liệu
Vào đầu thời kỳ Phục Hưng, lòng đỏ trứng được sử dụng làm chất kết dính chính, tạo nên lớp sơn mờ và khô nhanh. Điều này đồng nghĩa với việc các chất màu phải được phủ lên bằng những nét cọ đặc biệt. Trong bối cảnh nhiều tông màu rực rỡ được ưa chuộng, không ít họa sĩ nổi tiếng đã nhận ra rằng tầm nhìn nghệ thuật của họ vượt xa khả năng tài chính để sở hữu đủ màu sắc cần thiết. Johannes Vermeer đã sử dụng một lượng lớn màu sắc đắt tiền trong các tác phẩm của mình đến mức khiến gia đình ông rơi vào cảnh nợ nần chồng chất. Còn với Michelangelo, bức tranh The Entombment được cho là đã phải dở dang vì ông không có đủ khả năng mua màu xanh ultramarine – loại sắc tố quý giá nhất thời bấy giờ.

Tác phẩm The Entombment của Michelangelo. Ảnh: National Gallery

Tác phẩm Woman Reading a Letter – một trong những bức tranh sử dụng xanh ultramarine của danh họa Johannes Vermeer. Ảnh: Rijksmuseum
Đến sự can thiệp của hóa học và sự phổ biến của Acrylic
Khi con người bắt đầu thấu hiểu sâu sắc hơn về hóa học, nhiều thập kỷ nghiên cứu đã được dành để phát triển màu sơn tổng hợp. Chất màu tổng hợp hiện đại đầu tiên chính là màu xanh Phổ – một sắc màu được yêu mến từ lâu – được phát hiện một cách tình cờ vào đầu thế kỷ 18 khi một nhà hóa học đang cố gắng tạo ra màu đỏ. Sắc xanh này bền màu và đậm hơn màu xanh nước biển truyền thống, mở ra nhiều khả năng mới cho các họa sĩ. Màu xanh Phổ chính thức được đặt tên là Preussisch blau vào tháng 8 năm 1709. Trong vòng một thế kỷ tiếp theo, nhiều loại màu nhân tạo khác ra đời, kéo theo giá thành màu sơn giảm đáng kể và trở nên dễ tiếp cận hơn.

Tác phẩm “The Entombment of Christ” của Pieter van der Werff là bức tranh lâu đời nhất sử dụng màu “xanh Phổ”. Ảnh: Museum Boijmans Van Beuningen
Khi nhu cầu sử dụng màu sắc ngày càng tăng, các nhà sản xuất sơn công nghiệp bắt đầu cho ra đời sơn nhũ, sơn bóng và sơn trang trí nội thất. Các nghệ sĩ như Pablo Picasso ưa chuộng việc kết hợp sơn công nghiệp với sơn dầu truyền thống, nhờ đó có thể tạo nên những màu sắc độc đáo và kết cấu khác biệt. Họa sĩ theo trường phái biểu hiện trừu tượng người Mỹ Jackson Pollock cũng ưu ái sơn công nghiệp. Với kỹ thuật vẽ nhỏ giọt đặc trưng, ông cần loại sơn có độ chảy mượt mà, và do đó đã chuyển sang sử dụng sơn men bóng – một loại sơn gốc nhựa tổng hợp mới xuất hiện trên thị trường thời bấy giờ.

Tác phẩm “Red Barn” bởi Roy Lichtenstein. | Ảnh: Huntington Museum of Art
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về màu sắc, một loại sơn mới tiếp tục ra đời. Otto Röhm đã phát minh ra nhựa acrylic, sau đó nhanh chóng được chuyển hóa thành sơn acrylic. Đầu năm 1934, kỹ thuật phân tán nhựa acrylic được phát triển bởi công ty hóa chất BASF của Đức. Từ năm 1946 đến 1949, Leonard Bocour và Sam Golden đã cho ra đời giải pháp sơn acrylic dưới nhãn hiệu Magna – loại sơn được chiết xuất từ khoáng chất. Để phục vụ sản xuất hàng loạt, sơn acrylic đã được thương mại hóa vào những năm 1950.
Theo đà phát triển đó, Sam Golden tiếp tục nghiên cứu và tạo ra loại sơn acrylic gốc nước mang tên Aquatec. Loại sơn này sau đó được bán dưới dạng sơn latex dùng cho nội thất, với “latex” là thuật ngữ kỹ thuật chỉ sự phân tán các vi hạt polymer trong nước. Sơn latex nội thất là sự kết hợp của chất kết dính (có thể là acrylic, vinyl, PVA và các loại khác), chất độn, bột màu và nước. Trong khi sơn latex ngoại thất cũng có thể là hỗn hợp đồng polymer, sơn gốc nước chất lượng cao nhất vẫn là loại 100% acrylic nhờ tính đàn hồi vượt trội cùng nhiều đặc tính khác. Tuy nhiên, do vinyl có giá chỉ bằng một nửa so với acrylic nguyên chất và polyvinyl acetate (PVA) thậm chí còn rẻ hơn, các công ty sơn đã tạo ra nhiều công thức kết hợp khác nhau để đáp ứng đa dạng nhu cầu thị trường.

Tác phẩm “Convergence” bởi Jackson Pollock. Ảnh: Albright Knox Art Gallery
Tạo nên bước ngoặt trong ngành hội họa, màu acrylic – với sự kết hợp giữa các đặc tính của sơn dầu và sơn nước – đã nhanh chóng thay thế sơn dầu trong việc sử dụng hàng ngày. Là loại sơn gốc nước với giá thành phải chăng, khả năng giữ màu tốt và thời gian khô nhanh, acrylic không còn xa lạ với đông đảo họa sĩ. Roy Lichtenstein, nghệ sĩ theo phong cách Pop Art, đã sử dụng acrylic kết hợp với sơn dầu, nhờ đó dễ dàng kiểm soát từng nét vẽ của mình một cách tinh tế hơn. Những nghệ sĩ theo đuổi trường phái Biểu hiện Trừu tượng như Helen Frankenthaler và Morris Louis cũng ưa thích màu acrylic tổng hợp nhờ sắc độ phong phú và hiệu ứng màu nước đặc biệt mà họ có thể đạt được khi pha loãng với dung môi.
Đối với nhiều nghệ sĩ, màu sắc và loại sơn họ lựa chọn chính là dấu ấn đặc trưng trong phong cách sáng tạo của riêng mình. Màu sắc có thể thay đổi tâm trạng của tác phẩm hoặc gợi lên những ý nghĩa sâu sắc. Sự phát triển không ngừng của công nghệ sơn và sự đa dạng của các chất màu hiện có đã mở ra vô vàn khả năng sáng tạo cho các nghệ sĩ, cho phép họ chuyển tải trí tưởng tượng của mình lên canvas một cách trực tiếp và chân thực nhất.
Thực hiện: Vân Thảo
Xem thêm
Hiệu ứng Chromostereopsis: Mở khóa chiều sâu trong thiết kế nội thất