Làng nghề truyền thống: Hành trình theo dấu tinh hoa

Từ bàn tay người thợ mỹ nghệ Việt, những vật liệu mộc mạc được thổi hồn thành sản phẩm vừa mang giá trị thẩm mỹ, vừa phản ánh tri thức và bản sắc văn hóa Á Đông.

Thủ công mỹ nghệ là một trong những lĩnh vực phản ánh rõ nét nhất bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ những hoạt động sản xuất mang tính tự cung tự cấp, người Việt đã hình thành nên hệ thống làng nghề thủ công phong phú, đa dạng về loại hình và giàu giá trị nghệ thuật. Mỗi làng nghề không chỉ đại diện cho một kỹ thuật chế tác mỹ nghệ riêng, mà còn là kết quả của sự thích ứng giữa con người với điều kiện tự nhiên, xã hội và văn hóa từng vùng.

Những miền di sản

1. Làng gốm Bát Tràng: Tinh hoa của đất và lửa

Nằm bên tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Gia Lâm (Hà Nội), làng gốm Bát Tràng được xem là trung tâm gốm cổ truyền lâu đời và nổi tiếng nhất Việt Nam. Theo nhiều nghiên cứu khảo cổ và tư liệu lịch sử, nghề gốm ở Bát Tràng hình thành từ thế kỷ XIV–XV, khi những dòng thợ gốm tài hoa di cư từ các vùng lân cận đến khai thác nguồn đất sét trắng dồi dào nơi đây. Nhờ vị trí gần kinh thành Thăng Long và thuận lợi giao thương đường sông, Bát Tràng sớm phát triển thành làng nghề quy mô lớn, chuyên sản xuất đồ gốm phục vụ dân dụng, tôn giáo và cung đình.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Làng gốm Bát Tràng xưa và nay. Ảnh: Tư liệu

Điểm đặc trưng của gốm Bát Tràng là thân gốm dày, chắc, phủ men rạn, men ngà hay men lam đặc trưng, cùng kỹ thuật tạo hình và trang trí hoàn toàn thủ công. Mỗi sản phẩm là sự hòa quyện giữa kỹ thuật tinh xảo và cảm quan thẩm mỹ dân gian. Trải qua hơn sáu thế kỷ, Bát Tràng vẫn giữ được sức sống bền bỉ nhờ hoạt động sản xuất mỹ nghệ liên tục với mật độ lò nung dày đặc, các dòng họ làm nghề truyền nối qua nhiều đời và hệ thống thương mại quy mô lớn, tạo nên một mô hình làng nghề hiếm hoi còn tồn tại và phát triển rực rỡ đến tận ngày nay.

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Những công đoạn chế tác gốm. Ảnh: Tuấn Phương

2. Làng mộc Chàng Sơn: Những mộng ghép hoàn hảo

Thuộc huyện Thạch Thất (Hà Nội), làng mộc Chàng Sơn từ lâu được xem là cái nôi của nghề mộc truyền thống Việt Nam,  xuất hiện từ thời Lê sơ, gắn với việc xây dựng và chạm khắc cung điện, đình chùa vùng Thăng Long. Câu truyền miệng “Mộc Chàng Sơn, rèn Đa Sĩ, gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc” đã phần nào khẳng định vị thế của làng trên bản đồ mỹ nghệ xứ Đoài – Kinh Kỳ. Qua nhiều thế hệ, người thợ nơi đây tích lũy hệ kỹ thuật chạm, khảm và đặc biệt là nghệ thuật ghép mộng không dùng đinh xuất sắc đến mức được dân gian ví von rằng: “Mộng Chàng Sơn khít như duyên vợ chồng”.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Một vài công đoạn điêu khắc gỗ. Công cụ trong ảnh cuối cùng là Đục chàng chảy (chàng) – linh hồn của làng nghề Chàng Sơn xưa, đồng thời là nguồn gốc cho tên gọi đặc biệt của nơi này. Ảnh: Hồng Phúc

Ngày nay, làng mộc Chàng Sơn không chỉ bảo tồn kỹ thuật mỹ nghệ cổ truyền mà còn được Nhà nước tin tưởng giao phó đảm nhận nhiều hạng mục phục dựng và trùng tu di tích cấp quốc gia như Văn Miếu – Quốc Tử Giám, chùa Tây Phương, đền Quán Thánh, đền Hùng, cùng nhiều đình chùa cổ khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chính sự tiếp nối nghề nghiệp liên tục, đội ngũ nghệ nhân tay nghề cao và hệ thống xưởng sản xuất quy củ đã giúp Chàng Sơn giữ vững vị thế trung tâm mộc mỹ nghệ tiêu biểu của Việt Nam.

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Những hoa văn độc đáo, những nét chạm trổ thủ công mang trong mình hơi thở của sự cổ kính pha lẫn nét hiện đại. Ảnh: Hồng Phúc

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Bộ tượng “18 vị La Hán chùa Tây Phương” được coi là tác phẩm kinh điển của nền nghệ thuật cổ Việt Nam. Bộ tượng này gồm hai tượng đặt ở chùa Trung và 16 tượng ở chùa Thượng. Ảnh: Hồng Phúc

3. Làng lụa Vạn Phúc: Nghìn sợi tơ, nghìn năm văn hóa

Trong kho tàng nghề thủ công Việt Nam, hiếm có chất liệu nào gắn liền với sự mềm mại và thanh lịch trường tồn như lụa Vạn Phúc. Bên bờ sông Nhuệ, ngôi làng nhỏ thuộc quận Hà Đông (Hà Nội) này đã dùng sự khéo léo để dệt nên danh tiếng suốt hơn một thiên niên kỷ. Kỳ thực, khi được hình thành vào thời nhà lý bởi bà A La Thi Nương – người khởi truyền nghề trồng dâu, nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa cho người dân, làng có tên là Vạn Bảo. Sau đến triều Nguyễn, làng mới được đổi tên thành Vạn Phúc để tránh phạm húy vua Bảo Đại và cái tên ấy tồn tại cho đến tận ngày nay như một biểu tượng của chất lượng tơ tằm Việt.

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Lụa Vạn Phúc. Ảnh: Tư liệu

Lụa Vạn Phúc nổi tiếng bởi độ mềm, óng và bền, đông mặc thì ấm, hè khoác lên lại mát mẻ, dễ chịu. Mỗi tấm lụa được dệt thủ công qua nhiều công đoạn, từ ươm tơ đến nhuộm và canh khung, đòi hỏi kỹ thuật tinh xảo và sự kiên trì của người thợ. Những đặc tính nổi bật này kết hợp cùng hệ thống hoa văn trang nhã, đậm chất Á Đông, đã tạo nên sản phẩm tơ lụa có chất lượng và giá trị vô cùng vượt trội. Ngày nay, Vạn Phúc vừa là trung tâm sản xuất lụa truyền thống, vừa là điểm du lịch văn hóa, minh chứng cho sức sống bền bỉ của một nghề hơn nghìn năm tuổi.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Công đoạn dệt lụa Vạn Phúc. Ảnh: Ngọc Linh

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Sản phẩm cao cấp từ lụa Vạn Phúc. Ảnh: Ngọc Linh

4. Làng thêu Quất Động: Đường chỉ giữ hồn đất Việt

Nếu gốm Bát Tràng kết tinh từ đất, mộc Chàng Sơn sinh ra từ gỗ, thì Quất Động lại thêu dệt nên văn hóa bằng những sợi chỉ tơ óng ánh. Cách trung tâm Hà Nội hơn 20km, làng thêu Quất Động (huyện Thường Tín) được xem là cái nôi của nghề thêu truyền thống nước ta, hình thành từ thế kỷ XVII. Theo nhiều truyền thuyết và điển tích ghi nhận lại, ông Lê Công Hành – người làng, sau chuyến đi sứ sang Trung Quốc, đã học được nghề thêu cung đình tinh xảo và truyền dạy cho dân quê cùng phát triển.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Một tác phẩm thêu của làng Quất Động.

Trải qua hơn ba trăm năm, bàn tay người làng Quất Động vẫn miệt mài tạo nên những bức tranh thêu phong cảnh, chân dung, thư pháp và đặc biệt là tranh thêu hai mặt – kỹ thuật thêu đặc trưng của làng. Qua kỹ thuật ấy, hai mặt của tấm vải đều hoàn thiện như nhau, không để lộ mối chỉ, từng mũi kim đối xứng tuyệt đối. Người thợ phải kiểm soát độ xiết, hướng kim và ánh sáng sao cho cả hai mặt đều tinh vi, không thừa một sợi, không sai một mũi. Chính sự kiên nhẫn, cảm quan thẩm mỹ và tay nghề bậc thầy ấy đã giúp tranh thêu Quất Động đạt đến trình độ tinh xảo hiếm có trong khu vực.

Không ngẫu nhiên mà dân gian vẫn truyền miệng những câu ca dao:

“Hỡi cô thắt lưng bao xanh

Có về Quất Động với anh thì về

Quất Động làng anh có nghề

Thêu gà thêu vịt, thêu hoa trên cành”

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Thoăn thoắt tay kim, đôi chim công trên tà áo dài trên khung thêu dần hiện ra. Ảnh: Thành Vinh

5. Làng khảm trai Chuôn Ngọ: Di sản của bàn tay và ánh sắc

Trên bản đồ làng nghề thủ công Việt Nam, khảm trai Chuôn Ngọ giữ một vị trí vô cùng đặc biệt: vừa là minh chứng cho sự tinh xảo của kỹ nghệ Bắc Bộ, vừa là dấu tích sống động về cách người xưa cảm nhận cái đẹp qua chất liệu tự nhiên. Theo ghi chép dân gian, làng Chuôn Ngọ (xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Nội) được hình thành từ thời Lý – Trần, gắn liền với truyền thuyết về người thợ Trương Công Thành – một vị tướng nhà Lý sau khi lui về quê đã truyền dạy kỹ nghệ khảm xà cừ cho dân làng. Đến thời Lê Nhân Tông (thế kỷ XV), kỹ thuật này phát triển rực rỡ, trở thành dòng mỹ nghệ cung đình tinh xảo bậc nhất.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Khảm xà cừ xưa. Ảnh: Tư liệu

Từ những mảnh vỏ trai, vỏ ốc sông hồ, người thợ làng Chuôn Ngọ đã sáng tạo nên kỹ thuật khảm phẳng đặc trưng, từng mảnh xà cừ được cắt ghép khít tuyệt đối lên mặt gỗ, mang đến hiệu ứng ánh sáng chuyển sắc tinh vi. Kỹ nghệ này đòi hỏi sự chính xác cao độ của con mắt họa sĩ, bàn tay điêu khắc và sự kiên nhẫn tuyệt đối của người thợ thủ công.

Suốt nhiều thế kỷ, các nghệ nhân Chuôn Ngọ không chỉ gìn giữ kỹ nghệ cổ mà còn tham gia trùng tu hàng trăm di tích lớn nhỏ trên khắp miền Bắc. Sản phẩm của họ, từ hoành phi, câu đối, tủ chè đến tranh khảm, đều phản ánh trình độ thẩm mỹ và kỹ thuật bậc thầy của một làng nghề Việt Nam. Từ năm 2019, Chuôn Ngọ được Hà Nội công nhận là điểm du lịch làng nghề chính thức, nơi du khách có thể trực tiếp chứng kiến ánh sắc ngàn năm vẫn còn ngân vang trên nền sơn ta của người thợ Việt.

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Các công đoạn khảm xà cừ. Ảnh: Yên Vân

6. Làng mây tre đan Phú Vinh: Vẻ đẹp của sự giản dị

Cách trung tâm Hà Nội chừng ba mươi cây số, làng mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ) vốn khởi đầu từ nghề đan lát dân dụng đã được nâng tầm thành mỹ nghệ tinh xảo bậc nhất miền Bắc qua hơn bốn thế kỷ. Bàn tay người thợ nơi đây có thể “thêu” trên mây, “dệt” bằng tre, biến những sợi vật liệu mộc mạc thành tranh, bình, đèn, bàn ghế hay sản phẩm trang trí mang giá trị thẩm mỹ cao.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Ảnh: Tư liệu

Nổi bật nhất trong mỹ nghệ của làng là kỹ thuật xâu xiên sợi mây – thao tác mà người thợ phải đan từng sợi mây mảnh xuyên qua mặt khung đã cố định, sao cho hoa văn nổi lên đều, không để lộ mối nối, mặt trong và mặt ngoài liền lạc như một. Mỗi sợi mây được chuốt mỏng đến vài milimét, tước sợi bằng dao sắc và phải giữ độ ẩm ổn định để không bị gãy, cong. Chính nhờ kỹ thuật này, sản phẩm Phú Vinh đạt đến độ mịn, phẳng và bền gần như tuyệt đối, thậm chí có thể tạo ra họa tiết phức tạp như phong cảnh, thư pháp hay tứ linh.

Ngày nay, làng nghề Phú Vinh vẫn duy trì hơn một nghìn hộ sản xuất, vừa phát triển mẫu mã truyền thống, vừa sáng tạo thiết kế mới phục vụ xuất khẩu sang thị trường châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Du khách có thể về Phú Vinh để tận mắt chứng kiến quy trình đan lát thủ công, gặp gỡ nghệ nhân và mua sản phẩm ngay tại xưởng.  

thu cong viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Một sản phẩm khéo léo của nghệ nhân làng nghề Phú Vinh. Ảnh: Vietcraft

7. Làng giấy dó Phong Khê: Di sản mỹ nghệ của tri thức Việt

Trước khi người Việt biết đến kỹ thuật in ấn và khắc bản, giấy dó đã là nền tảng cho mọi hoạt động học thuật, hành chính và mỹ thuật trong suốt nhiều thế kỷ. Và chính làng Phong Khê tại miền đất quan họ Bắc Ninh, là nơi tạo nên những tờ giấy dó đầu tiên – mỏng như sương nhưng bền bỉ như ký ức. Nghề làm giấy dó ở đây xuất hiện từ thời Tiền Lê – Lý, phát triển cực thịnh dưới triều Lê – Nguyễn, khi nhu cầu giấy cho việc thi cử, ghi chép và sắc phong tăng cao.

Giấy dó là một loại vật liệu thuần Việt, được làm từ vỏ cây dó qua nhiều công đoạn như: ngâm, nấu, giã nhuyễn, lọc và phơi, dưới bàn tay khéo léo và tinh tế của các nghệ nhân. Nhờ vậy, giấy dó có độ dai, mịn, thấu sáng và tuổi thọ hàng trăm năm, đủ sức lưu giữ những bản kinh Phật, những sắc lệnh triều đình hay tranh dân gian Đông Hồ.

Ngày nay, phần lớn làng Phong Khê đã chuyển sang sản xuất giấy công nghiệp và tái chế để đáp ứng nhu cầu thị trường hiện đại, do nghề làm giấy dó truyền thống đòi hỏi nhiều công sức, năng suất thấp và nguồn nguyên liệu khan hiếm. Tuy nhiên, sự chuyển đổi này cũng khiến làng nghề đối diện với thách thức môi trường và nguy cơ mai một bản sắc mỹ nghệ. Giữa những nhà máy sản xuất giấy công nghiệp, vẫn còn những nghệ nhân lặng lẽ giữ nghề, như một cách giữ lại ký ức văn hóa Việt trên những tờ giấy mỏng manh, trường tồn.

thu cong my nghe viet nam bat trang chang son van phuc quat dong chuon ngo phu vinh phong khê

Các công đoạn làm ra giấy dó. Ảnh: Viết Sơn

Tinh hoa hội tụ

Điều đáng chú ý là, dù dọc dải đất Việt có hàng trăm làng nghề truyền thống, thì những cái tên tiêu biểu nhất của thủ công mỹ nghệ Việt Nam – từ gốm Bát Tràng, lụa Vạn Phúc, khảm trai Chuôn Ngọ, mộc Chàng Sơn, thêu Quất Động, đến giấy dó Phong Khê, lại đều tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc. Sự trùng hợp ấy không hề ngẫu nhiên, nó phản ánh rõ dòng chảy lịch sử – văn hóa của quốc gia.

Miền Bắc, đặc biệt là vùng đồng bằng sông Hồng, từ lâu đã là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp Việt cổ. Khu vực này sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi với đất đai màu mỡ, nguồn nguyên liệu phong phú và hệ thống sông ngòi dày đặc. Sông Hồng còn đóng vai trò như “dòng sông văn hóa”, kết nối các vùng sản xuất, tạo nên mạng lưới giao thương và trao đổi sản phẩm mỹ nghệ sớm nhất nước. Chính nền tảng kinh tế – xã hội ổn định ấy đã giúp miền Bắc sớm hình thành cộng đồng cư dân có đời sống tinh thần phong phú, tạo tiền đề cho sự phát triển của các nghề thủ công bên cạnh nông nghiệp. 

Sang đến thế kỷ XI, khi vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, miền Bắc một lần nữa trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Kinh thành thịnh vượng kéo theo nhu cầu lớn về vật phẩm sinh hoạt, đồ thờ cúng và sản phẩm mỹ nghệ, thúc đẩy sự hình thành của nhiều làng nghề quanh Thăng Long, nơi các nghệ nhân tài hoa quy tụ, lập nghiệp và truyền nghề qua nhiều thế hệ.

Bên cạnh những yếu tố nội tại, vị trí địa lý giáp ranh với Trung Quốc – nền văn minh có truyền thống thủ công phát triển bậc nhất châu Á, cũng tạo điều kiện để miền Bắc sớm tiếp thu kỹ thuật, công cụ và mỹ cảm tinh xảo. Tuy nhiên, người Việt không sao chép nguyên mẫu mà khéo léo Việt hóa, biến chúng thành những hình thức mang bản sắc dân tộc: từ gốm, dệt, khảm đến chạm khắc, tất cả đều phản ánh tinh thần sáng tạo và thẩm mỹ dân gian. Sự kết hợp hài hòa giữa điều kiện tự nhiên, những biến chuyển lịch sử – xã hội và giao lưu văn hóa đã khiến miền Bắc trở thành “thủ đô của thủ công mỹ nghệ Việt Nam”, nơi mỗi sản phẩm không chỉ là vật dụng mà còn là biểu hiện sinh động của tâm hồn Việt.

Thực hiện: Thùy Như


Xem thêm: 

Khảm xà cừ: Ánh sắc ngàn năm trên nền sơn ta

Gốm Bàu Trúc: Hành trình sắc đen huyền bí của di sản Champa

Các làng nghề mây tre ở Việt Nam