Trong dòng chảy lịch sử Việt Nam, việc chọn đất lập kinh đô luôn được xem là một trong những quyết định trọng đại nhất của mỗi triều đại. Kinh đô là trung tâm chính trị, quân sự, đồng thời đại diện cho tầm nhìn chiến lược và khát vọng dựng nước, giữ nước của dân tộc. Từ cổ chí kim, trong tâm niệm của người Á Đông, đặc biệt là người Việt, việc định đô bao giờ cũng gắn liền với triết lý “thiên thời – địa lợi – nhân hòa”, họ coi đó là nền tảng để tạo dựng một quốc gia vững mạnh và trường tồn.
Ảnh: Vietnamnet
Tuy vậy, người xưa khi chọn nơi đặt kinh đô không chỉ cân nhắc dựa trên phong thủy. Họ còn phải cân đối được bài toán giữa: phòng thủ và phát triển. Một mặt, kinh đô phải có thế đất hiểm trở, thuận lợi cho việc bảo vệ đất nước trong thời buổi còn nhiều biến động; mặt khác, nơi ấy cũng cần có thế đất mở, giao thương thuận tiện để đất nước có thể mở mang, hưng thịnh lâu dài. Đại Việt sử ký toàn thư từng ghi lại: “Khi mới dựng nước, vua Đinh Tiên Hoàng đóng đô ở Hoa Lư, lấy núi sông hiểm yếu làm nơi kiên cố, nhờ đó mà trong nước được yên.” Ở giai đoạn sau, tầm nhìn chiến lược ấy càng được thể hiện rõ trong Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn (1010), khi ông khẳng định:
“Thành Đại La (Thăng Long) ở giữa trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa các phương Nam – Bắc – Đông – Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng đất ấy rộng mà bằng phẳng, mặt đất cao mà sáng sủa, muôn vật phong phú, nhân dân không khổ cực, là nơi thịnh vượng của đế vương muôn đời.”
Những dòng tư liệu ấy cho thấy người xưa coi việc chọn đất lập đô không đơn thuần là sắp đặt hành chính, mà là một tuyên ngôn văn hóa và chính trị. Theo tiến trình lịch sử, ba cố đô tiêu biểu của Việt Nam là Hoa Lư, Thăng Long và Huế trở thành những dấu mốc quan trọng, phản ánh tầm nhìn và tư duy trị quốc của từng triều đại.
Ảnh: Jean-Pierre Dalbéra
Cố đô Hoa Lư: Kinh đô của buổi đầu thống nhất
Sau thời kỳ dài loạn lạc của 12 sứ quân, đất nước bị chia cắt, Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên cát cứ, thống nhất giang sơn. Năm Mậu Thìn (968), ông lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, “dời kinh ấp về động Hoa Lư, khởi lập kinh đô mới: đắp thành, đào hào, dựng cung điện, đặt triều nghi” (Đại Việt sử ký toàn thư, phần ghi chép về triều Đinh). Trong bối cảnh chính trị còn nhiều biến động, việc chọn Hoa Lư – vùng núi đá vôi trùng điệp của Tràng An làm kinh đô là một quyết định chiến lược.
Phạm vi cố đô Hoa Lư gồm không gian hình thành, phát triển lịch sử; không gian cảnh quan, các địa danh, địa điểm, địa giới tự nhiên có quan hệ mật thiết trong quá trình hình thành Nhà nước Đại Cồ Việt và Cố đô Hoa Lư, bao gồm: khu vực Kinh thành, Hoàng thành, khu vực đồn trú, phủ đệ, lăng mộ, đình đền, chùa. Ảnh: Tuan Mai
Thế đất Hoa Lư được sử cũ và dân gian cùng ghi nhận là “núi là thành, sông là hào” – một cấu trúc phòng thủ tự nhiên lý tưởng. Các dãy núi đá vôi khép kín bao quanh những thung lũng bằng phẳng, xen kẽ hệ thống sông ngòi và hang động ngầm, vừa tạo thế hiểm trở để chống giặc, vừa có thể lưu thông đường thủy khi cần. Dân gian còn miêu tả: “Núi trong sông, sông trong núi; sau lưng là rừng, trước mặt là đồng bằng, xa nữa là biển cả”, cho thấy sự hòa hợp giữa yếu tố “hiểm để thủ” và “mở để phát” của vùng đất này.
Cửa Đông thành dẫn vào đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Ảnh: Kien1980v
Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Ảnh: Tư liệu
Ảnh: Tư liệu
Nhiều nghiên cứu địa sử học hiện đại cũng chỉ ra rằng Hoa Lư thời nhà Đinh, Tiền Lê rất gần biển, có các cửa biển như Đại An, Tiểu Ác, Tiểu Khang thông ra vùng duyên hải. Điều này khẳng định Hoa Lư không hoàn toàn bị bao bọc bởi núi, mà còn có hướng mở ra biển, tạo điều kiện cho giao thương nhưng lại khó để tạo tác động từ bên ngoài “khi thủy quân Chiêm Thành tiến đánh Hoa Lư, họ từng theo đường biển vào nhưng gặp nhiều trở ngại do gió và sóng lớn”. Hiểm mà không bế, mở mà vẫn vững, việc chọn Hoa Lư làm kinh đô thể hiện tầm nhìn thực tế và vô cùng sâu sắc của vua Đinh Tiên Hoàng.
Cửa Nam thành. Ảnh: Kien1980v
Hệ thống sông núi thành Nam của cố đô Hoa Lư. Ảnh: Kien1980v
Không chỉ do chính quyền trung ương còn non trẻ, ở giai đoạn đầu dựng nền độc lập sau gần một nghìn năm Bắc thuộc, nhà Đinh đã xác định đúng ưu tiên hàng đầu là củng cố sức mạnh và giữ vững an ninh quốc gia. Từ thế đất hiểm yếu ấy, dựng nên một vương triều vững vàng về phòng thủ, ổn định về chính trị, đồng thời duy trì được sự giao lưu kinh tế – văn hóa với các vùng lân cận. Dưới chân núi Tràng An, quyền lực trung ương lần đầu được định hình rõ rệt, đất nước bước vào thời kỳ yên bình ngắn nhưng có tính nền tảng, mở đường cho sự phát triển thịnh trị của Thăng Long sau này.
Chùa Bàn Long. Ảnh: Kien1980v
Cố đô Thăng Long: Tầm nhìn phát triển Đại Việt
Thực ra, trước khi Lý Công Uẩn (sau này là vua Lý Thái Tổ) ban Chiếu dời đô để chính thức dời kinh đô Đại Việt từ Hoa Lư về Đại La – Thăng Long vào năm 1010, vùng đất này đã từng được xem là nơi có giá trị chiến lược ngay từ thời Cao Vương – hay còn được biết đến với tên gọi Cao Biền. Cụ thể, khi thành Đại La được xây dựng để kiểm soát vùng đồng bằng sông Hồng, truyền tích dân gian nói rằng Cao Biền đắp xong thành Đại La thì gặp hiện tượng linh thiêng Thần Long Đỗ, phản ánh nhận thức sớm về vị trí quan trọng của thành quách này.
Tuy nhiên, chỉ đến đời Lý Thái Tổ, người mới có cái nhìn toàn diện và đánh giá sâu sắc hơn về địa thế nơi đây, dẫn đến quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La – một sự trở về về mặt địa lý nhưng là bước nhảy về tư duy trị quốc. Trong Chiếu dời đô, vua Lý Thái Tổ khẳng định:
“Thành Đại La (Thăng Long) ở giữa trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa các phương Nam – Bắc – Đông – Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng đất ấy rộng mà bằng phẳng, mặt đất cao mà sáng sủa, muôn vật phong phú, nhân dân không khổ cực, là nơi thịnh vượng của đế vương muôn đời.”
Kỳ đài – ngày nay người dân quen gọi là Cột cờ Hà Nội, đại diện cho sự khởi nguyên. Ảnh: Giang Nam – Thành Đạt
Đoan Môn hay còn gọi là cửa Nam, là một công trình đồ sộ gồm năm cổng lớn. Ảnh: Giang Nam – Thành Đạt
Nhìn từ đặc điểm tự nhiên, Thăng Long nằm ngay trong đồng bằng sông Hồng, vùng phù sa màu mỡ với hệ thống sông ngòi, kênh rạch phong phú, thuận lợi cho sản xuất lúa nước và phân phối nông sản. Các nghiên cứu về phát triển nông nghiệp và quản lý nước ở đồng bằng sông Hồng cũng khẳng định vùng này có tiềm năng thủy lợi và năng suất lúa cao, có thể tạo nền tảng kinh tế ổn định cho đô thị trung tâm.
Thăng Long còn là giao điểm giữa đường bộ sơn – thủy, cụ thể: hệ thống sông ngòi của sông Hồng và các kênh nhánh tạo điều kiện cho giao thương nội vùng và kết nối biển. Chính khả năng mở rộng hệ thống giao thông đã biến Đại La từ một cứ điểm phòng thủ cũ thành một trung tâm mở, có thể nuôi sống và liên kết toàn khu vực.
Điện Kính Thiên Năm 1886. Ảnh: Charles-Edouard Hocquard
Cửa Bắc – nơi còn hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882. Ảnh: Charles-Edouard Hocquard
Từ góc độ của vua Lý Thái Tổ và các sử thần, Thăng Long có tất cả những phẩm chất cần có của một kinh đô: vị trí trung tâm; địa thế vững chãi; đất đai cao ráo, bằng phẳng; tiềm năng cung cấp lương thực dồi dào và thuận lợi giao thương. Vì vậy, việc dời đô thể hiện một định hướng phát triển lâu dài: từ ưu tiên an ninh sang ưu tiên phát triển kinh tế – văn hóa và liên kết vùng – bước chuyển vượt bậc từ “thủ” sang “phát”.
Thành bậc hình rồng thời Lê sơ trước điện Kính Thiên được công nhận là Bảo vật quốc gia. Ảnh: Ngô Vương Anh
Cố đô Thăng Long đã mở ra một thời kỳ phát triển rực rỡ cho Đại Việt. Là trung tâm chính trị và văn hóa, Thăng Long trở thành nơi hội tụ của các hoạt động triều đình, kinh tế, thương mại, giáo dục và nghệ thuật cung đình. Các nghiên cứu khảo cổ học và bảo tồn tại khu Hoàng thành Thăng Long cho thấy sự kế thừa liên tục vị thế phát triển từ thời Lý đến triều Trần, Lê – chứng tỏ tính liên tục quyền lực và ảnh hưởng lâu dài của cố đô này.
Giếng nước thời Trần, gạch ghép kiểu lá nem rất kiên cố. Ảnh: Duyphuong
Viên ngói hình rồng phủ men vàng tiêu biểu cho kiến trúc cung điện tại cố đô Thăng Long. Ảnh: Giang Nam – Thành Đạt
Khi công nhận Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội là di sản thế giới, UNESCO cũng nêu rõ đây là nơi “the centre of regional political power for almost thirteen centuries without interruption” (tạm dịch: trung tâm quyền lực chính trị khu vực trong gần mười ba thế kỷ mà không bị gián đoạn) – một minh chứng quốc tế cho tầm ảnh hưởng lâu dài của Thăng Long.
Từng là trị sở của một viên Tiết độ sứ phương Bắc, Thăng Long được người Việt biến thành trái tim của một quốc gia độc lập, biểu tượng cho khát vọng tự chủ và phát triển trường tồn. Chính từ vùng đất ấy, Đại Việt bước vào kỷ nguyên thịnh trị, mở rộng cương vực, phát triển văn hóa, định hình bản sắc dân tộc và để lại dấu ấn sâu đậm suốt gần một thiên niên kỷ. Thăng Long vì thế không chỉ là kinh đô của một triều đại, mà là kinh đô của trí tuệ, tầm nhìn và khí phách Việt.
Cố đô Huế: Hòa hợp dân tộc
Sau gần ba thế kỷ Trịnh – Nguyễn phân tranh khốc liệt, rồi đến cuộc khởi nghĩa Tây Sơn làm rung chuyển toàn cõi, Việt Nam đầu thế kỷ XIX bước vào một khúc quanh lớn của lịch sử. Nguyễn Ánh thống nhất giang sơn vào năm 1802, ông đứng trước một câu hỏi đầy tính thời đại: đâu sẽ là nơi kết tinh ý chí thống nhất, hàn gắn những vết rạn Bắc – Trung – Nam sau bao nhiêu năm chia cắt?
Bản vẽ mặt bằng tổng thể Đại nội Huế năm 1909 trong Đại Nam nhất thống chí. Ảnh: Hienzquynh
Huế – vùng đất Phú Xuân thơ mộng bên sông Hương, dưới chân núi Ngự, đã trở thành câu trả lời. Đây không chỉ là vùng đất tổ tiên nhà Nguyễn, mà còn nằm ở trung tâm lãnh thổ, giữa hai đầu đất nước, nơi sông núi hòa quyện với địa thế vừa kín đáo, vừa rộng mở. Trong Đại Nam thực lục, triều Nguyễn từng ghi rằng:
“Phú Xuân, nhân sĩ đông đúc, phong tục thuần lương, thật là nơi đô hội bậc nhất của nước Nam.”
Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày 11 tháng 9 năm 1932. Ảnh: Tư liệu
Từ góc nhìn phong thủy, Huế quả thực là vùng đất hiếm có: sông Hương chảy uốn quanh, ôm lấy kinh thành như một dải lụa mềm; phía sau là dãy Ngự Bình uy nghi, sừng sững, tiếp đến là cả hệ thống núi Trường Sơn, Bạch Mã, tạo nên thế “long chầu hổ phục”, “chu tước tiền, huyền vũ hậu”. Việc định hướng nhìn về phía Đông Nam được cho là phù hợp với các mạch núi sông và long mạch vùng đất, tạo ra thế “chu tước” trước, “huyền vũ” sau , “bạch hổ” hữu bên, “thanh long” tả bên – cách bố trí lý tưởng mà triều Nguyễn rất chú trọng trong quy hoạch cung điện và thành quách.
Trục và hướng của Kinh Thành Huế (từ sử liệu đến thực tế). Ảnh: Tư liệu
Cũng theo ghi chép trong Đại Nam thực lục, vua Gia Long đã đích thân xem thế đất, chọn hướng, đắp hào dựng lũy, mở đầu cho công cuộc kiến thiết kinh thành quy mô lớn và đồng bộ bậc nhất Việt Nam. Việc xây thành bắt đầu năm 1804, chu vi hơn 11km, tường thành cao gần 6m, bao quanh là sông hộ thành, vừa là tuyến phòng thủ, vừa là cảnh quan mang ý nghĩa phong thủy tốt đẹp.
Ngọ Môn – cửa chính dẫn vào Hoàng thành Huế. Ảnh: Supanut Arunoprayote
Cửa Chương Đức – cửa phía Tây của Hoàng thành. Ảnh: Supanut Arunoprayote
Nếu Thăng Long là kinh đô của mở mang và phát triển, thì Huế là kinh đô của quy củ và thống nhất. Trong mô hình kiến trúc của Huế, mọi trục đường, mọi cổng thành, điện miếu đều có vị trí cân đối, trục Nam – Bắc rõ ràng, phản chiếu tư tưởng về một vũ trụ hài hòa – nơi con người, thiên nhiên và vương quyền được đặt trong cùng một trật tự. Từ Điện Thái Hòa, Ngọ Môn, đến lăng Minh Mạng, Tự Đức, mỗi công trình là một biểu tượng mỹ học quý giá.
Thọ Chỉ môn (壽祉門) – cửa chính dẫn vào cung Diên Thọ, nơi ở của các Hoàng Thái Hậu hoặc Thái Hoàng Thái Hậu. Ảnh: Uwe Aranas
Lăng Minh Mạng. Ảnh: Nguyễn Huy Đức
Lăng Khải Định – một trong những lăng tẩm đẹp và độc đáo nhất trong hệ thống lăng tẩm ở Huế với lối kiến trúc giao thoa hài hòa giữa phong cách Á – Âu. Ảnh: Nguyễn Huy Đức
Dưới triều Nguyễn, Huế trở thành trung tâm của văn hóa cung đình Việt Nam – nơi nhã nhạc, nghi lễ, thư pháp, trang phục, và nghệ thuật cung đình được định hình và nâng tầm. Chính từ đây, một nền văn minh cung đình độc đáo đã ra đời, vừa mang dấu ấn Á Đông, vừa thấm đẫm tinh thần Việt: uy nghi mà uyển chuyển, sang trọng mà thanh nhã. Hệ thống lăng tẩm, đền miếu, cùng toàn bộ Hoàng thành Huế, ngày nay được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới – minh chứng cho một đỉnh cao của văn hóa, kiến trúc và tư duy quy hoạch.
Cảnh rước vua Bảo Đại từ Đại Cung môn sang điện Thái Hòa, năm 1926. Ảnh: Thanh Ba
Tượng rồng trên mái cung điện Hoàng gia ở Huế. Ảnh: Uwe Aranas
Nhà hát Duyệt Thị đường là nơi biểu diễn các vở tuồng dành cho vua, hoàng thân quốc thích, các quan đại thần và sứ thần thưởng thức. Nơi đây được xem là nhà hát cổ nhất của nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Ảnh: Francisco Anzola
Rõ ràng, Huế không chỉ là nơi triều Nguyễn đặt ngai vàng. Đó là nơi họ gửi gắm một giấc mơ về một nước Việt thống nhất, quy củ, thiên hạ thái bình, đất trời rực rỡ. Nếu Thăng Long là nhịp thở mạnh mẽ của một quốc gia đang trỗi dậy, thì Huế là hơi thở lắng đọng của một nền văn minh đã chạm tới độ chín, nơi vương quyền và văn hóa cùng soi bóng xuống dòng Hương Giang hiền hòa.
Thực hiện: Thùy Như
Xem thêm:
Bản sắc cố đô: Hành trình qua những ngôi chùa nghìn năm