Văn hóa Đông Sơn (thế kỷ 7 TCN – thế kỷ 6 CN) là nền văn hóa khảo cổ thuộc thời đại kim khí ở Việt Nam (thuật ngữ để chỉ giai đoạn phát triển tiếp sau thời đại đồ đá, được đánh dấu bằng sự xuất hiện hai kim loại với hai giai đoạn phát triển chính là giai đoạn đồ đồng và giai đoạn đồ sắt). Cái tên “văn hóa Đông Sơn” được theo tên làng Đông Sơn ở ven bờ sông Mã (Thanh Hóa) – nơi các nhà khảo cổ học phát hiện ngẫu nhiên một nhóm đồ đồng cổ vào năm 1924.
Di vật của nền văn hóa Đông Sơn vô cùng đa dạng, mang tính thẩm mỹ cao, tiêu biểu nhất là trống đồng Đông Sơn. Những chiếc trống với quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hoà đã thể hiện một trình độ rất cao trong kỹ thuật đúc đồng của người Lạc Việt. Đặc biệt, những hoa văn phong phú được khắc họa trên mặt và thân trống đã miêu tả chân thật đời sống sinh hoạt của người dân trong thời kỳ đầu dựng nước, phần nào làm sáng tỏ đoạn lịch sử còn chìm trong đám mây mù của tổ tiên người Việt.
Trống đồng Đông Sơn (khoảng 600 TCN), trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Paris, Pháp. Ảnh: Grenouille vert
1. Phân loại trống đồng Đông Sơn
Trống đồng Đông Sơn phát triển rực rỡ trong khoảng thời gian từ thế kỷ 7 TCN đến thế kỷ 2 sau CN. Bàn về trống kim loại cổ tại khu vực Đông Nam Á, có rất nhiều nghiên cứu về phân loại đã được công bố, trong đó phổ biến nhất và được đông đảo các nhà nghiên cứu trống đồng Việt Nam đón nhận là phân loại 7 gồm 4 loại cơ bản và 3 loại phụ của nhà khảo cổ học người Áo Fr.Heger được công bố trong cuốn Trống kim loại cổ Đông Nam Á xuất bản năm 1902. Theo đó, trống đồng Đông Sơn thuộc dòng Heger I – cùng phân cấp với hệ thống trống Thạch Trại Sơn của người Điền, mang đặc trưng là kiểu dáng chuẩn mực, thể hiện rõ nét đời sống dân tộc qua hoa văn phong phú phức tạp.
Trống đồng Đông Sơn, trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam. Ảnh: VuThiAnh
Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khảo cổ học và sử học Việt Nam tiếp tục phân chia trống đồng Đông Sơn thành ba nhóm lớn (A, B, C) dựa trên đặc điểm bố cục, hình khắc và hoa văn trên mặt và thân trống. Sự đa dạng này không chỉ phản ánh trình độ chế tác mà còn cho thấy sự tiến hóa trong tư duy biểu tượng của người Lạc Việt qua từng giai đoạn.
Nhóm A – Trống mang tính điển hình nhất của văn hóa Đông Sơn
Nhóm A được xem là đại diện tiêu biểu nhất cho kỹ nghệ đúc đồng và tư duy nghệ thuật của người Lạc Việt thời kỳ sơ khai, được chia thành hai tiểu nhóm: A1 và A2, dựa trên mức độ phong phú của hình khắc cũng như đặc điểm hoa văn.
Tiểu nhóm A1 gồm sáu chiếc trống nổi bật: Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà, Khai Hóa, Bản Thôm và Quảng Xương. Những chiếc trống này gây ấn tượng bởi hệ thống hình khắc phong phú, trong đó hình người đóng vai trò chủ đạo, thể hiện qua các cảnh sinh hoạt cộng đồng như giã gạo, nhảy múa, đánh trống, chèo thuyền. Đặc biệt, tang trống (phần thân trên, tiếp giáp mặt trống) thường có khắc hình sáu chiếc thuyền, tượng trưng cho các cuộc lễ nghi hoặc diễn xướng tập thể. Bên cạnh đó, giữa thân trống còn có hình võ sĩ đứng trong các ô hình chữ nhật, thể hiện rõ dấu ấn của một xã hội có tổ chức và tầng lớp chiến binh. Về hoa văn, các trống A1 sử dụng họa tiết lông công xen giữa các cánh sao, hoa văn hình chữ ∫ gãy khúc, hoa văn răng cưa – tất cả tạo nên một bố cục trang trí cân đối, sinh động và có tính biểu trưng cao.
Hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ I. Ảnh: cuốn Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam
Tiểu nhóm A2 bao gồm tám trống: Miếu Môn, Vũ Bị, Đồi Ro, Làng Vạc I, Làng Vạc II, Pha Long, Phú Xuyên và Quảng Trị. Các trống này vẫn giữ những đặc điểm chung như tang trống có khắc cảnh đua thuyền, nhưng số lượng thuyền có thể thay đổi và mặt trống không còn cảnh sinh hoạt như tiểu nhóm A1. Đáng chú ý, trong hoa văn và hình khắc bắt đầu xuất hiện hình ảnh động vật tưởng tượng như con vật đầu chim, có bốn chân và đuôi dài như cáo hoặc hình thú bốn chân với bờm, mõm há, đuôi cuộn. Hình võ sĩ không còn, thay thế bằng hình con bò hoặc chim – cho thấy sự biến đổi trong tư duy biểu tượng. Hoa văn chủ đạo là họa tiết tam giác lồng nhau xen giữa các cánh sao, cùng với hoa văn răng cưa – đơn giản hơn nhưng vẫn mang tính biểu cảm mạnh.
Hình dáng trống đồng Làng Vạc I. Ảnh: cuốn Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam
Nhóm B – Giảm bớt cảm giác lễ nghi, trở nên gần gũi hơn với đời sống
Nhóm B là nhóm trống đồng Đông Sơn có số lượng lớn nhất trong hệ thống phân loại, với tổng cộng 26 trống, trong đó có nhiều chiếc nổi tiếng như: Duy Tiên, Yên Tập, Ngọc Lũ II, Việt Khê, Làng Vạc III và IV, Định Công I-III, Cửu Cao, Mật Sơn, Đông Sơn I-IV, Đào Thịnh… Đặc điểm nổi bật của nhóm này là tính trang trí dần chiếm ưu thế, trong khi các hình khắc mang tính nghi lễ, biểu tượng bắt đầu giản lược.
Trên mặt trống, ngôi sao nhiều cánh là yếu tố trung tâm, phần lớn có 12 cánh nhưng cũng có một số trống ngôi sao chỉ có 8 hoặc 10 cánh. Vành chim – dải hoa văn vòng quanh ngôi sao, thường được khắc 4 con chim, đôi khi là 6 con, sắp xếp đều theo hướng cùng chiều hoặc ngược chiều kim đồng hồ. Về mặt hoa văn, họa tiết lông công truyền thống đã có những biến thể rõ rệt, thể hiện qua hình tam giác phủ vạch chéo, hình chữ ∫ gãy khúc và các vạch ngắn song song – tất cả mang tính trang trí nhiều hơn là biểu tượng, cho thấy tư duy cách tân và đơn giản hóa trong thẩm mỹ.
Nhóm B phản ánh một giai đoạn mà trống đồng đã được sản xuất phổ biến, không chỉ giới hạn trong giới thủ lĩnh hoặc nghi lễ cấp cao, mà được sử dụng rộng rãi hơn trong cộng đồng cư dân. Điều này cũng cho thấy sự mở rộng về phạm vi phân bố và nhu cầu sử dụng trong đời sống.
Hoa văn răng cưa và tia mặt trời ở trống Đông Sơn IV. Nguồn: Dong Son drums in Viet Nam
Nhóm C – Trống có hình thức đơn giản hóa, mang yếu tố địa phương
Nhóm C gồm 11 chiếc trống: Hữu Chung, Đông Hiếu, Đa Bút, Phú Phương I, Phú Phương II, Nông Cống, Thôn Bùi, Chợ Bờ, Đắc Glao, Thôn Mống và Hàng Bún. Đây là nhóm trống có đặc điểm hình thức đơn giản hóa rõ rệt nhất so với hai nhóm trước, thể hiện qua cả bố cục hoa văn lẫn nội dung hình khắc.
Trên mặt trống, yếu tố trung tâm vẫn là ngôi sao – phần lớn có 12 cánh, nhưng bao quanh là một vành hoa văn chim đã được cách điệu mạnh. Chim không còn mang đặc điểm tự nhiên như ở nhóm A mà trở thành những khối hình đơn giản, thường không đặc tả rõ đầu, mỏ hay cánh. Một đặc điểm khác vô cùng hiếm thấy ở các nhóm trống khác là sự xuất hiện của 4 khối tượng cóc trên mặt trống, bố trí theo bốn hướng, có thể mang ý nghĩa biểu tượng riêng của địa phương hoặc gắn liền với tín ngưỡng bản địa.
Hệ thống hoa văn ở nhóm C thể hiện sự đa dạng nhưng đồng thời cũng có dấu hiệu suy giảm về kỹ thuật và ý nghĩa biểu tượng. Có 6 dạng hoa văn chủ yếu được sử dụng: hình tam giác lồng nhau, vòng tròn đồng tâm có chấm giữa và tiếp tuyến, vạch ngắn song song, chữ M lồng nhau, đường gấp khúc liên tiếp tạo thành ô hình trám và hoa văn hình trâm. Những mô-típ này có xu hướng thiên về hình học, thiếu vắng các hình người, động vật sinh động như nhóm A và cả các chi tiết động vật kỳ ảo của nhóm B.
Tính chất địa phương của nhóm C rất rõ nét, thường được tìm thấy ở các vùng ven hoặc xa trung tâm đồng bằng sông Hồng, phản ánh quá trình bản địa hóa trống đồng Đông Sơn và sáng tạo mới trên nền di sản cổ xưa theo từng vùng cư trú cụ thể. Đồng thời, sự đơn giản hóa trong chế tác cũng gợi mở giả thuyết rằng các trống thuộc nhóm C ra đời trong thời kỳ suy thoái quyền lực trung tâm, hoặc thời kỳ trống đồng không còn là vật phẩm nghi lễ cao cấp mà đã chuyển sang công năng thực dụng hơn, thậm chí có thể chỉ là biểu tượng văn hóa cấp cộng đồng nhỏ.
Mặt trống đồng Phú Phương I. Ảnh: cuốn Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam
Việc phân chia trống đồng Đông Sơn thành ba nhóm A, B, C không chỉ mang ý nghĩa hệ thống hóa mà còn mở ra chiều sâu trong nghiên cứu văn hóa, xã hội và lịch sử. Sự đa dạng giữa các nhóm phản ánh một thực tế quan trọng rằng: trống đồng Đông Sơn là hệ thống trống đa dân tộc, có sự phát triển theo vùng miền và theo thời kỳ. Từ những chiếc trống nghi lễ mang tính quyền lực cao (nhóm A), đến các trống gắn với cộng đồng dân cư phổ thông (nhóm B) rồi đến các hình thức biến thể hoặc bản địa hóa (nhóm C), tất thảy là tấm gương phản chiếu tiến trình phân hóa xã hội, đa dạng văn hóa và sự thay đổi tư duy biểu tượng của người Lạc Việt.
Đối với giới nghiên cứu, việc phân nhóm trống giúp xác định niên đại tương đối, định vị các trung tâm đúc đồng và từ đó dựng lại bức tranh xã hội tiền – sơ sử Việt Nam. Với các nhà thiết kế, nghệ sĩ, kiến trúc sư đương đại, phân loại này là nguồn cảm hứng để tái hiện, phát triển các sản phẩm văn hóa – nghệ thuật – mỹ thuật có chiều sâu, có nền tảng lịch sử và mang tinh thần bản sắc Việt.
Chi tiết hoa văn trên trống đồng Đông Sơn. Ảnh: Tom Mai
2. Kỹ thuật chế tác trống
Sự cầu kỳ trong từng bố cục, hình khắc và hoa văn trên trống đồng Đông Sơn phản ánh trình độ luyện kim và đúc đồng đỉnh cao của người Việt cổ. Một chiếc trống thường có kích cỡ khá lớn với đường kính xấp xỉ 90cm, chiều cao trên dưới 60cm, nặng gần 100kg. Không chỉ kích cỡ, hình thể của trống của biến hóa vô cùng phức tạp: tang trống phần trên phình ra hình nón cụt, giữa thắt lại hình trụ tròn, phần chân loe ra hình phễu. Có thể thấy, để đúc được một hình thể liền khối như vậy không hề đơn giản.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trống đồng Đông Sơn được đúc bằng khuôn hai mảnh, rìa mặt trống còn sót lại những dấu vết cách đều của con kê để căn đều chiều dày thành trống trên khuôn đúc. Người nghệ nhân chế tác trống đồng phải đạt được hàng loạt các yêu cầu khắt khe về mặt kỹ thuật như phải am hiểu nhiệt độ có thể nung chảy hợp kim đồng, nắm vững tính năng hóa lý của mỗi kim loại trong hợp kim đồng, phải tìm được vật liệu chịu lửa để làm khuôn đúc và đặc biệt là phải có tay nghề đúc vô cùng thành thạo. Từ việc quan sát hệ thống hoa văn dày đặc và tinh xảo trên mặt trống, hoàn toàn có thể kết luận rằng xã hội Lạc Việt từ xưa đã có những người thợ đúc lành nghề.
Trống đồng cỡ nhỏ tại bảo tàng Hà Nội. Ảnh: Ptdtch
3. Vai trò & chức năng trong đời sống cổ đại
Trước hết, trống đồng Đông Sơn là một nhạc cụ quan trọng và thiêng liêng, gắn liền với đời sống tinh thần và nghi lễ của cư dân Lạc Việt. Không giống như những nhạc cụ dùng trong trình diễn thông thường, trống đồng thường chỉ được sử dụng trong các dịp đặc biệt có tính nghi lễ cao, như lễ tế trời đất, lễ hội cầu mùa, lễ mừng chiến thắng hay tang lễ của những nhân vật có địa vị trong cộng đồng. Về mặt âm sắc, theo kết quả ghi âm của nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo, khi đánh vào vành 1-3 của trống sẽ thu được nốt Si giáng; vành 4-5 được nốt Mi và Fa; ở vành 7 cũng được nốt Si giáng. Từ vành 9 trở ra lại trở lại nốt Mi. Đặc biệt, kích thước to nhỏ cũng có ảnh hưởng rất lớn đến âm vực và âm sắc của trống, khiến trống Đông Sơn đáp ứng được nhiều nhu cầu trình diễn khác nhau của đời sống cộng đồng.
Bên cạnh vai trò là nhạc cụ, trống đồng Đông Sơn còn là biểu tượng của quyền lực chính trị và xã hội. Những chiếc trống lớn, hoa văn phong phú, tinh xảo thường không được dùng phổ biến trong đời sống hàng ngày mà thuộc về các thủ lĩnh, tầng lớp lãnh đạo. Theo ghi chép trong Hậu Hán thư, khi Mã Viện – tướng nhà Hán, tiến vào vùng đất Giao Chỉ – vùng đồng bằng sông Hồng ngày nay để trấn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, đã cho thu gom và nấu chảy trống đồng của các thủ lĩnh bản địa người Lạc Việt làm nguyên liệu chế tạo tượng ngựa mang về hiến lên thượng cấp… Điều đó chứng tỏ trống không chỉ là đồ vật phục vụ nghi lễ mà còn là vật phẩm biểu trưng cho quyền lực của người đứng đầu. Ngoài ra, các chi tiết hình khắc trên trống cũng thể hiện sự phát triển về kỹ thuật quân sự của thời kỳ này. Trong số 436 người được khắc, có 175 người cầm vũ khí, tức chiếm 40,1%. Các loại vũ khí gồm: giáo, rìu, cung, dao găm và mộc sắc nhọn, cho thấy người Lạc Việt thời sơ khai dựng nước đã kế thừa những sản phẩm của tiến trình tiến hóa chung là biết chế tạo vũ khí để bảo vệ bờ cõi.
Bản vẽ hoa văn trang trí trống đồng Hoàng Hạ (nhóm A1). Ảnh: Sưu tầm
Không chỉ vậy, hoa văn trên mặt trống, đặc biệt là hình ngôi sao 12 cánh, các mô-típ lặp lại có tính chu kỳ còn phản ánh khả năng tính toán và tư duy thời gian của cư dân Lạc Việt. Trong tổng số trống được tìm thấy và nghiên cứu, hơn 46% có hình ngôi sao 12 cánh, nhiều vòng họa tiết được tổ chức theo nguyên tắc số chẵn như: 6 thuyền, 4 chim, 8 động vật… Chứng tỏ rằng tổ tiên của người Việt đã nhận thức được quy luật tự nhiên mang tính chu kỳ từ rất sớm, từ đó xây dựng lịch nông nghiệp và điều chỉnh hoạt động sản xuất phù hợp với mùa vụ. Đây là minh chứng cho một xã hội đã đạt đến trình độ tư duy trừu tượng và có kiến thức cơ bản về khí tượng, thiên văn.
Cuối cùng, sự xuất hiện của trống đồng trong các ngôi mộ, đặc biệt là những mộ lớn có nhiều hiện vật tùy táng cho thấy sự phân hóa xã hội rõ rệt trong nền văn hóa Lạc Việt. Trong khi người thường chỉ có thể được chôn cùng những công cụ lao động bằng đá, đồng thì người thuộc tầng lớp giàu có, quý tộc lại được chôn cùng trống đồng – một vật phẩm xét cho cùng là rất có giá trị về mặt vật chất. Điều này cho thấy, văn hóa Đông Sơn là thời kỳ mà cấu trúc xã hội đã có sự phân tầng với biểu hiện giàu nghèo rõ rệt – bước khởi đầu cho quá trình hình thành nhà nước đứng đầu kéo dài suốt lịch sử Việt.
4. Trống đồng trong dòng chảy đương đại
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, trống đồng Đông Sơn không chỉ dừng lại ở giá trị khảo cổ mà còn vươn lên thành một biểu tượng văn hóa quốc gia. Ngày nay, hình ảnh mặt trống với ngôi sao nhiều cánh, những vành chim lạc và họa tiết cổ xưa đã trở thành dấu ấn nhận diện cho bản sắc Việt. Nó hiện diện trong nhiều biểu tượng chính thức chẳng hạn như logo SEA Games 22 – diễn ra tại Hà Nội vào năm 2003, được cách điệu từ hình chim Lạc trên mặt trống Ngọc Lũ, đại diện cho kỹ nghệ Đông Sơn, phát triển thành biểu tượng đoàn kết, chiến thắng với ba màu (đỏ, xanh lá, xanh dương) tượng trưng cho thể thao dưới nước, điền kinh và tinh thần chiến thắng.
Logo SEA Games 22. Ảnh: Sưu tầm
Không dừng ở tính biểu tượng, trống đồng còn được ứng dụng linh hoạt trong thiết kế và mỹ thuật đương đại. Trong đời sống thường nhật, ta dễ bắt gặp hình ảnh trống đồng xuất hiện trên mặt bàn, vách tường, trần nhà trong các công trình văn hóa hay trên các sản phẩm lưu niệm như đĩa đồng, tranh đồng nổi, tượng trống thu nhỏ được chế tác tỉ mỉ, tất thảy như một lời giới thiệu cô đọng về lịch sử dân tộc. Hình ảnh trống đồng được chuyển hóa khéo léo, kết hợp giữa cổ điển và hiện đại, giữa chất liệu truyền thống với kỹ thuật mới, giúp nó sống tiếp trong dòng chảy văn hóa đương đại, thay vì chỉ là nằm yên như một hiện vật bị lãng quên.
Thậm chí, mô-típ trang trí trống đồng Đông Sơn còn xuất hiện trong dòng đồng hồ cao cấp Dong Son The Sun của thương hiệu Speake-Marin. Ảnh: Speake-Marin
Trống đồng Đông Sơn là âm vang sống động và bền bỉ của một nền văn minh phát triển, từng đạt đến trình độ cao về tư duy biểu tượng, kỹ thuật chế tác và chiều sâu thẩm mỹ. Từng nét khắc trên mặt trống, từng mảng hoa văn uốn lượn quanh thân trống, đều cho thấy sự tinh tế của người xưa trong việc kết hợp nghệ thuật, tín ngưỡng và khoa học kỹ thuật vào cùng một vật phẩm – vừa là nhạc cụ, vừa là biểu tượng văn hóa.
Nếu xem trống đồng là một “tổng thể văn hóa”, thì hoa văn trên nó chính là thứ ngôn ngữ tinh thần mà tổ tiên Lạc Việt để lại. Chúng không ngừng kể lại những câu chuyện của người Việt cổ, là một hệ thống ký hiệu cần được đọc và hiểu với tất cả thái độ trân trọng.
Thực hiện: Thùy Như
Xem thêm:
Hoa văn thủy ba: Nét duyên dáng của sóng nước