Trong văn hóa phương Đông, đặc biệt là Việt Nam, có rất nhiều bộ số khác nhau gắn liền với văn hoá và nghệ thuật. Trong đó, bộ tứ (4) được xuất hiện nhiều nhất, thể hiện vai trò quan trọng hàng đầu trong mọi sự vật, hiện tượng. Từ xa xưa, nội dung, biểu hiện và ý nghĩa của các bộ tứ đã được khắc họa vào văn học, thi ca và tạo hình. Trong đó, nổi tiếng nhất có thể kể đến Tứ bình, Tứ quý và Tứ linh.
Tứ quý và tứ bình
Tứ quý (hay tứ hữu, tứ thời) là hình tượng các loài cây đại diện cho bốn mùa trong năm, được thể hiện dưới dạng tranh bộ bốn bức, gọi là tứ bình. Tuy nhiên, tứ bình không phải là tranh vẽ bốn loài hoa được cắt tỉa gọn gàng và cắm vào bốn chiếc bình. Thực chất, theo Từ điển Tiếng Việt, tứ bình có nghĩa là: bộ bốn tranh được treo cùng nhau, thường thể hiện khung cảnh lao động của con người như: câu cá, đốn củi, cày ruộng, đọc sách hoặc vẻ đẹp của bốn mùa. Việc vẽ kèm theo các vật dụng, thức quả hay loài vật trong tranh chỉ là một dạng thức kết hợp để tạo ra các biểu hiện tứ quý khác nhau tùy theo quan niệm, lối sống của người dân trong mỗi triều đại.
Tứ quý về bát tiên. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Bộ bốn bức tranh Hàng Trống về tứ dân: Ngư – Tiều – Canh – Mục. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Tứ quý Kim Vân Kiều Truyện – tác phẩm tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng đã truyền cảm hứng cho đại thi hào Nguyễn Du sáng tác ra truyện thơ Đoạn trường tân thanh Truyện Kiều. Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Bộ tứ quý chủ đạo: Mai – Trúc – Cúc – Tùng. Ảnh: Tư liệu
Có năm bộ tứ quý được sử dụng một cách phổ biến là: “mai – trúc – cúc – tùng”, “đào – trúc – cúc – tùng”, “mai – cúc – trúc – lan”, “mai – cúc – trúc – sen”, “mai – sen – cúc – tùng”. Các bộ cây này là trọng tâm của các cụm trang trí nhưng ít khi đứng đơn độc, thường được đưa thêm vào các họa tiết phụ để tạo thành những cảnh đẹp và có ý nghĩa. Chẳng hạn, ở bộ tứ quý “mai – sen – cúc – tùng”, hoạ sĩ có thể thêm thắt chi tiết động vật như chim, vịt, bướm, hươu/hạc để tạo thành mai điểu – liên áp – cúc điệp – tùng lộc/hạc. Trong khi bộ tứ quý “đào – trúc – cúc – tùng” có thể được thêm vào bốn công trình nghệ thuật tiêu biểu của người Việt là: Khuê văn các, chùa Một Cột, đền Ngọc Sơn và chùa Trấn Quốc.
Ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Một số bộ tứ quý thay thế hoa mai bằng hoa mẫu đơn. Những thay đổi này có thể bắt gặp nhiều trong thời kỳ đỉnh cao của tranh Hàng Trống. Tuy nhiên, mẫu đơn là loài hoa biểu tượng của người Trung Hoa, được du nhập vào như một dạng ảnh hưởng của nghệ thuật. Vậy nên, nếu xét về tính thuần Việt thì bộ tứ quý có hoa mẫu đơn không thể hiện được đặc trưng văn hóa quốc gia.
Ảnh: Tư liệu
Nhiều tranh cãi vẫn diễn ra xoay quanh vấn đề vì sao bộ tứ quý chủ đạo không phải “đào – trúc – cúc – tùng” mà lại là “mai – trúc – cúc – tùng” với lập luận rằng lẽ ra, hoa đào nên được “ưu ái” hơn vì là biểu tượng cho mùa xuân ở miền Bắc – cái nôi của văn hóa Việt. Tuy nhiên, xét về lịch sử của hình tượng tứ quý trong văn hóa Việt Nam, vốn xuất hiện và phát triển mạnh mẽ dưới thời nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, vốn nổi tiếng với loài hoa hoàng mai. Vì vậy, việc sử dụng mai làm biểu tượng của mùa xuân trong bộ tứ quý chủ đạo là điều dễ hiểu.
Ảnh: Tư liệu
Bên cạnh đại diện cho bốn mùa, kiểu dáng và đặc tính của các loài cây trong tứ quý còn ẩn dụ cho những đức tính tốt đẹp và mong ước trong cuộc sống của con người:
Mai có gốc cây to, cành khẳng khiu, mảnh mai, hoa dày nhưng ít nụ, tượng trưng cho sự thanh cao, khí tiết của người quân tử và sự kiên trì, hy vọng vào cuộc sống. Ngoài ra, mai còn được ví như một người con gái đài các, gặp lúc đời loạn lạc vẫn phải như “cành mai nở trong gió đông” để nhắc nhở giữ mình thanh sạch.
Trúc trong các bộ tranh tứ bình thường được mô tả dưới dạng khóm cây đứng thẳng hoặc một vài cành đoản trúc (không thấy gốc và ngọn trúc) buông la đà, tượng trưng cho người quân tử với tính cách ngay thẳng và cương trực, góp phần thu hút sự hòa hợp và cân bằng trong cuộc sống.
Cúc được biểu hiện bằng một khóm cây thân thảo với bông hoa to, nhiều cánh hoặc tạo thành các hoa dây cách điệu ở vị trí trung tâm của các mô-tip trang trí, biểu trưng cho lòng thủy chung và sự viên mãn, phúc lộc dồi dào.
Tùng là loài cây lớn và mạnh mẽ nhất, chịu đựng điều kiện thời tiết khắc nghiệt mà vẫn giữ được bộ lá tươi xanh quanh năm, tượng trưng cho khí phách của người đàn ông, dám đương đầu với gian khổ để mang đến sự vững chãi và những khởi đầu tích cực cho gia đình.
Ảnh: Tư liệu
Trong kiến trúc, hình tượng tứ quý được định hình một cách rõ ràng và phát triển hoàn thiện khi nhà Nguyễn chính thức sử dụng chúng làm một trong những mô-tip trang trí chủ đạo trong cung đình Huế, phủ chúa, sau đó phát triển rộng ra ngoài dân gian, đặc biệt là ở các đình làng. Một số ngôi đình đẹp và nổi tiếng với sự góp mặt của các hình tượng trang trí hoa cỏ là đình Bảng, đình Diềm, đình So hay đình Yên Sở.
Ảnh: Tư liệu
Các chủ đề như bát bảo (tám vật quý), tứ quý được sử dụng trên pháp lam trang trí của dải cổ diêm trên mái điện Thái Hòa, Đại nội Huế, theo lối “nhất thi nhất họa” hoặc “nhất tự nhất họa”, tức là mỗi bài thơ hay mỗi đại tự được trang trí kèm một bức tranh. Ảnh: Tư liệu
Tùng, cúc, trúc, mai, đình Trung, xã Hà Yên (Hà Trung) thế kỷ XIX. Ảnh: Hiếu Trần
Hình tượng tùng trong bức chạm “Lão Tử cưỡi trâu”, chùa Hoa Long, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, thế kỷ XVI – XVII. Ảnh: Hiếu Trần
Hình tượng hoa cúc. Ảnh: Hiếu Trần
Trúc hóa long, đình Đông Môn, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, thế kỷ XIX. Ảnh: Hiếu Trần
Chạm khắc mai ở đình Trung, xã Hà Yên, huyện Hà Trung, thế kỷ XIX. Ảnh: Hiếu Trần
Trong lĩnh vực trang trí nhà cửa, vào giai đoạn giữa thời nhà Nguyễn, hình tượng tứ quý được lan truyền rộng rãi và phát triển cực thịnh. Khi các gia đình quý tộc sử dụng tứ quý để trang trí nhà cửa, bộ tranh sẽ được làm từ chất liệu cao cấp như vải lụa, gỗ, kim loại,… và áp dụng kỹ thuật khảm. Tranh trưng trong nhà thường dân được làm từ những chất liệu rẻ hơn như giấy dó hoặc giấy điệp.
Tứ linh
Tứ Linh, hay Tứ Đại Linh Thú là từ dùng để chỉ nhóm bốn loài sinh vật huyền ảo, xuất hiện dày đặc trong văn hóa Việt Nam, gồm Long (Rồng), Lân (Kỳ Lân), Quy (Rùa) và Phụng (Phượng Hoàng). Trong đó, Long, Lân và Phụng là ba sinh vật huyền bí, xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Bộ tứ linh này được người Việt suy ra từ tứ thánh thú, hay còn gọi là tứ tượng nổi tiếng của Trung Quốc, gồm: Thanh Long (hành Mộc – Trái), Chu Tước (hành Hỏa – Trước), Bạch Hổ (hành Kim – Phải), Huyền Vũ (hành Thủy – Sau).
Phù điêu Tứ linh tại Đền thờ Đức thánh Trần. Ảnh: Phương Huy
La bàn Tứ tượng của Trung Quốc, trong đó tại trung tâm Hoàng Lân (kỳ lân vàng thuộc hành Thổ) đại diện cho trái đất, cai quản Tứ tượng nhưng không thuộc về Tứ tượng. Ảnh: Tư liệu
Với những đặc tính riêng biệt, bộ tứ này đóng vai trò quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng tâm linh của người Việt nói riêng và cả khu vực Đông Á nói chung. Mỗi loài linh thú lại tượng trưng với một đức tính khác nhau, bao phủ toàn bộ đời sống tinh thần của con người.
Long: Rồng là loài vật đứng đầu tứ linh với quyền uy tuyệt đối, được mệnh danh là con của trời, sau trở thành biểu tượng của vua – tức là thiên tử. Con người tin rằng rồng là loài vật liêm chính, ngay thẳng và sẽ luôn chiến đấu bảo vệ họ trước hiểm nguy.
Theo nhiều nguồn mô tả, rồng Việt Nam là loài động vật gần họ với rắn, thân thuôn dài, có hoặc không có vảy cá (tùy theo từng thời) và 8 đặc điểm đặc trưng khác: sừng nai, đầu đà, mắt thỏ, thân rắn, bụng trai, ngón chân chim, chân hổ, tai bò. Rồng thường có bốn chân, mỗi chân lại có 3 chi. Bên cạnh đó, Rồng có bộ hàm lớn, với hàm nanh hung tợn và chiếc vòi uốn lượn. Nhìn chung, Rồng thường xuất hiện trong hình tượng uốn lượn, với đôi mắt sắc bén nhìn vào người đối diện. Gắn liền với rồng là ngọc, thường được điêu khắc với miệng ngậm ngọc hoặc dùng chân quắp lấy.
Thành bậc thang hình rồng thời Lê sơ trước điện Kính Thiên (không có vảy). Ảnh: Ngô Vương Anh
Thành bậc thang hinh rong thời Hậu Lê (có vảy). Ảnh: Ngô Vương Anh
Cũng chính vì quyền uy của mình, Rồng được xuất hiện trên họa tiết chạm trổ và hoa văn trên áo gấm của vua, biểu thị cho sứ mệnh bình quân trị nước. Từ triều đại nhà Trần, rồng không chỉ xuất hiện ở nơi trang nghiêm mà còn được chạm khắc ở chùa chiền, chẳng hạn như tại bậc thềm chùa Phổ Minh. Bên cạnh đó, hình tượng này được tập trung điêu khắc trong những bức tượng trước cung đình, đền, chùa, đình làng như một biểu tượng bảo vệ tuyệt đối những nơi linh thiêng.
“Long bào mây lam” của vua Đồng Khánh (1864-1889). Ảnh: Đắc Đức
Rồng trên bậc thềm đá tại chùa Phổ Minh. Ảnh: Tư liệu
Rồng chầu hoa cúc, đình Bảng Môn, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, đầu thế kỷ XVII. Ảnh: Hiếu Trần
Rồng sánh đôi với phượng trong mảng trang trí ở đình làng Đình Bảng. Ảnh: Hiếu Trần
Trong kho tàng lịch sử văn học dân gian Việt Nam, chúng ta có thể thấy hình tượng loài rồng xuất hiện rất nhiều, có thể nói là nhiều nhất trong bốn loài linh thú thuộc tứ linh. Từ truyện thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đến cả những tư liệu lịch sử cũng có dấu ấn của loài vật này. Tương truyền, vua Lý Thái Tổ vì nhìn thấy rồng bay lên mà quyết định ban chiếu dời đô, dời về Đại La và đổi tên thành Thăng Long (tức rồng bay lên).
Trong tín ngưỡng dân gian, người dân tin rằng dưới lòng đất là long mạch, tức mạch máu của rồng, nên có những nơi không thể canh tác hoặc phải sử dụng hết sức cẩn thận để tránh làm mất đi vượng khí của rồng. Truyền thuyết về rồng cũng không kém phần ấn tượng và phổ biến, hình ảnh Lạc Long Quân, vốn là một vị thần Rồng cai quản miền sông nước kết duyên cùng mẹ Âu Cơ và sinh ra 100 người con, bắt đầu một giai đoạn mới của loài người đã ăn sâu trong tâm tưởng người Việt.
Lân: Được xem là một loài động vật hiền lành, thân thiện nhất trong bộ tứ linh, Lân đại diện cho sự bảo vệ, che chở nên thường có những tương tác nhất định với loài người. Theo nhiều nghiên cứu, vị thần thuộc tứ linh này vốn có xuất xứ là con sư tử, được linh hóa và mang dáng vóc của vị thần.
Tên gọi Kỳ Lân thực chất đều chỉ loài Lân, nhưng với 2 giới khác nhau: Kỳ được dùng để chỉ lân đực, còn Lân thì chỉ giống cái. Loài Lân được miêu tả là mang hình hài của một con sư tử, với cặp sừng giống hươu trên đầu, bộ bờm oai dũng, mình nai, có vảy như vảy cá và gắn liền với thái bình thịnh thế nên thường xuất hiện dưới những vầng mây.
Điêu khắc gỗ họa tiết Kỳ Lân trong đình làng Đình Bảng. Ảnh: Ảnh: Hiếu Trần
Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp các bức tượng điêu khắc Lân với dáng vẻ oai nghiêm cùng chiếc bờm lớn ở khổ lớn, thường đi theo cặp dựng trước cửa nhà. Bên cạnh đó, hình Lân còn xuất hiện trên lư hương, trên lưng mang theo cổ đồ hoặc bát quái, thường được tìm thấy trong các đền thờ cung đình.
Hình tượng Lân trên lư hương. Ảnh: Tư liệu
Quy: Quy hay Rùa, loài vật duy nhất có thật trong bộ tứ linh thú, thường được biết đến với sự trường sinh bất lão, từ đó mà người xưa đã gán ghép tri thức và sự tinh thông, tường tận vào hình tượng Quy nên hình tượng này phát triển mạnh mẽ nhất trong văn học Trong lịch sử dân gian, Quy cũng là loài linh thú duy nhất xuất hiện báo mộng và giúp đỡ cho nhiều đời đế vương, từ việc bảo vệ thành lũy, cho đến ban vũ khí để bảo vệ bờ cõi.
Tượng rùa trong Văn miếu Quốc Tử Giám. Ảnh: Tư liệu
Lần đầu tiên hình tượng rùa xuất hiện là vào thời An Dương Vương (257-208 TCN). Khi đó, thần Rùa đã giúp đỡ vua An Dương Vương xây dựng thành lũy, người còn ban cho ông một chiếc móng để đẽo thành chiếc nỏ thần, giúp vua bảo vệ mảnh đất Âu Lạc. Lần thứ hai thần Rùa ra tay giúp đỡ là trao cho Lê Lợi thanh bảo kiếm để bình định giặc Minh trong khởi nghĩa Lam Sơn. Đến khi thái bình thịnh thế, hình ảnh vua Lê Lợi trao trả bảo vật cho thần Rùa đã được ghi nhớ bằng cách đổi tên hồ Tả Vọng thành Hồ Hoàn Kiếm, hay Hồ Gươm nay thuộc Hà Nội.
Hình gốm Rùa thần mang trên lưng thanh kiếm vua Lê Lợi trả. Ảnh: Tư liệu
Trong văn học dân gian Việt Nam cũng có nhiều sự tích và thành ngữ nhắc đến hình tượng con rùa, nhất là thành ngữ thường ví von sự già đời, chậm rãi của rùa với trí khôn và sự chín muồi của tri thức. Chúng ta cũng có câu “Linh Quy Hạc Phát” để chỉ ý chúc trường thọ như loài rùa, vẻ ngoài dù đã già vẫn thanh thoát như bộ lông trắng của loài hạc.
Phụng: Từ xa xưa, con người đã gọi phượng hoàng (phụng) là vua của các loài chim, bởi thế trong bộ tứ linh, phượng hoàng không chỉ gắn liền với điềm báo cho những điều lành, sự tái sinh mà còn thể hiện sự cân bằng của vũ trụ.
Cặp phượng chầu bằng gỗ thời Hậu Lê. Ảnh: Quốc Lê
Thân phượng hoàng sở hữu đủ 5 màu sắc của Ngũ hành, gồm: đen, trắng, đỏ, xanh, vàng, tượng trưng cho năm đức tính: ngay thẳng, lương thiện, công bằng, chung thủy, lòng khoan dung và sáu yếu tố bao hàm vũ trụ: đầu là bầu trời, mắt là Mặt trời, lưng là Mặt trăng, cánh là gió, chân là đất và đuôi là các hành tinh. Chính vì vậy, Phượng hoàng chỉ xuất hiện như một lời chúc mừng khi xã hội thái bình, có thánh nhân hoặc hiền triết cai trị dân chúng với chế độ công bằng.
Ảnh: Tư liệu
Thực ra trong văn hóa dân gian Việt Nam, hình tượng thần điểu xuất hiện từ rất sớm, có thể nói là cùng giai đoạn với loài Rồng. Chẳng hạn, trên họa tiết trống đồng Đông Sơn, hình tượng chim Lạc đã ít nhiều thể hiện sự tương đồng với phượng hoàng. Tương tự, trong nghệ thuật tạo hình của người Việt cổ, các khu vực chùa chiền, cung đình ở Huế hay trang phục hoàng hậu đều ít nhiều mang dấu ấn của phượng hoàng. Nếu Rồng là đại diện của thiên tử, thì Phượng Hoàng với địa vị cao quý và thoát tục sẽ thể hiện quyền lực của phái nữ. Hình ảnh phượng hoàng gần như xuất hiện ở khắp mọi nơi, chỉ cần gắn liền với Hoàng hậu, từ áo bào, khung ghế. Các phi tần của vua tùy theo cấp bậc sẽ giảm dần về độ tỉ mỉ, công phu khi thêu hình chim phượng hoàng.
Chi tiết phượng bào của Hoàng hậu nhà Nguyễn. Ảnh: Quốc Lê
Thực hiện: Thùy Như
Xem thêm:
Hoa văn thủy ba: Nét duyên dáng của sóng nước