Hổ phù – Di sản văn hóa sống trong kiến trúc và nghệ thuật

Không phổ biến như Tứ Đại Linh Thú, thế nhưng hình tượng Hổ phù vẫn hiện hữu bền bỉ hàng trăm năm như một linh vật bảo vệ mái nhà trong kiến trúc truyền thống Việt Nam.

Hổ phù là một hình tượng trang trí đặc sắc trong mỹ thuật truyền thống Việt Nam, thường xuất hiện trên mái các công trình tín ngưỡng như đình, chùa, đền, miếu cùng các vật phẩm thờ cúng. Khác với rồng hay phượng – những linh vật quen thuộc trong bộ tứ linh, Hổ phù mang vẻ uy nghiêm đặc trưng với chức năng trấn giữ, bảo vệ không gian linh thiêng.

Về nguồn gốc, Hổ phù trong mỹ thuật phương Đông bắt nguồn từ một loại tín vật quân sự cổ có hình đầu hổ được chia đôi. Theo đó, khi xuất quân, nhà vua giữ một nửa, tướng lĩnh cầm quân giữ nửa còn lại – biểu tượng này vừa thể hiện quyền lực tối thượng, vừa khẳng định tính chính danh trong việc điều binh khiển tướng. Qua thời gian, từ chức năng quân sự ban đầu, Hổ phù đã được cách điệu để trở thành một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, góp phần tô điểm cho kiến trúc truyền thống Việt Nam với những đường nét chạm khắc vừa uy nghi vừa tinh xảo.

ho phu trang tri linh vat phong kien kien truc di san

Hổ phù là hình tượng phổ biến trên những bức phù điêu mặt quỷ La Hầu (Rahu), thường thấy trên các công trình kiến trúc thời phong kiến. Ảnh: Journeys in Hue

Tuy nhiên, hình tượng Hổ phù trong kiến trúc đình làng Việt Nam thực chất không liên quan đến tín vật quân sự cổ đại, mà có nguồn gốc sâu xa từ hình tượng La Hầu (Rahu) – một yếu tố văn hóa Ấn Độ được du nhập và Việt hóa qua thời gian. Trong quan niệm Á Đông, hổ là biểu tượng của sức mạnh, sự dũng mãnh và khả năng trấn áp tà khí. Chính vì vậy, hình tượng đầu hổ thường được đặt ở vị trí trung tâm mái đình – nơi linh thiêng nhất – với chức năng bảo vệ không gian thờ tự.

ho phu van hoa my thuat dan gian kien truc

Ảnh: Trong quan niệm của Phật giáo, Hổ phù được xem như một sức mạnh tiêu trừ ác độ, bảo vệ Phật pháp. Ảnh: Journeys in Hue

my thuat viet nam di san dan gian ho phu

Trong truyền thuyết, Rahu là quỷ thần đại diện cho tai ương và bóng tối. Khi được đưa vào Phật giáo, hình tượng này dần được chuyển hóa thành một biểu tượng hộ pháp bảo vệ chính pháp. Ảnh: Journeys in Hue

Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Trần Hậu Yên Thế – Chuyên gia Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật, gốc tích của Hổ phù chính là La Hầu – con quỷ trong thần thoại Ấn Độ. Tương truyền, La Hầu từng uống trộm sữa trường sinh nên bất tử, bị thần Vishnu chặt đứt thân mình. Từ đó, chỉ còn lại cái đầu, La Hầu thường nuốt Mặt Trời, Mặt Trăng gây ra nhật thực, nguyệt thực. Hình tượng Hổ phù chỉ thể hiện phần đầu với miệng ngậm chặt một vật chính là ẩn dụ cho tích truyện này. Còn theo PGS.TS Đinh Hồng Hải, La Hầu được sử dụng rộng khắp trong các không gian tín ngưỡng vì được xem là nhân vật phạm tội và được giáo hóa, trở thành vị thần hộ pháp bảo vệ chính pháp. Hình tượng này là sự đan xen của hai hệ thẩm mỹ Trung Hoa và Ấn Độ, đặc biệt phát triển mạnh thời Nguyễn và xuất hiện nhiều trong trang trí “long hàm thọ”.

Tạo hình Hổ phù: Từ dữ tợn đến uy nghiêm

Hình tượng Hổ phù thường được khắc họa với thần thái hung dữ, miệng há rộng đầy uy lực, răng nanh sắc nhọn, đôi mắt trợn tròn như muốn khống chế tà khí. Tùy theo từng giai đoạn và địa phương, Hổ phù có những dị bản khác nhau: một số phiên bản xuất hiện vằn hổ hoặc sừng, hàm mở rộng ngậm mặt trăng, chữ thọ (Long Hàm Thọ), chữ hỷ, thậm chí phun ra đóa hoa sen cách điệu. Đôi chân của linh vật này thường bành rộng hai bên, bám chặt vào các đám mây hoặc vòm mái, tạo thế vững chãi như đang canh giữ không gian linh thiêng.

Dù mang dáng vẻ dữ tợn, Hổ phù trong mỹ thuật Việt Nam đã trở nên mềm mại hơn đi qua quá trình “rồng hóa” hoặc “sen hóa” – tức kết hợp với họa tiết rồng hay hoa sen để giảm bớt vẻ hung bạo, nhưng vẫn giữ được nét uy nghiêm cần thiết. Điều này phản ánh mỹ cảm tinh tế của người Việt, khi biến một hình tượng có gốc gác từ thần – quỷ Ấn Độ thành tác phẩm nghệ thuật vừa có tính thẩm mỹ, vừa đậm chất tâm linh.

Về chất liệu, Hổ phù được thể hiện đa dạng từ gỗ, đá đến gốm tráng men. Ở các đình, chùa lớn, hình tượng này thường được đúc bằng gốm men màu, chiếm vị trí trung tâm trên nóc mái, nổi bật dưới ánh mặt trời. Trong khi đó, tại những công trình nhỏ hơn, Hổ phù xuất hiện qua những đường chạm khắc tinh xảo trên bệ tượng, khám thờ, hoặc đầu đao, chủ yếu bằng gỗ hoặc đá – chất liệu gần gũi với kiến trúc dân gian.

cham khac da thu cong viet nam dan gian rahu

Sập đá được chạm khắc Hổ phù tại chùa Bối Khê, Hà Nội | Ảnh: Hiếu Trần

ho phu rahu son thep vang thu cong cham khac go

Hình tượng Hổ phù với chất liệu gỗ sơn son thếp vàng. Ảnh: Journeys in Hue

Ý nghĩa của Hổ phù trong kiến trúc truyền thống

Hổ phù nổi bật trong hệ thống linh vật Việt Nam bằng vẻ ngoài hung dữ khác thường, tạo nên sự khác biệt đầy ấn tượng. Trong đời sống tâm linh người Việt, hình tượng này thường chiếm vị trí trung tâm trên mái đình, đảm nhận vai trò như một vị thần hộ pháp linh thiêng. Người xưa tin rằng với vẻ ngoài dữ tợn cùng thần thái uy nghi, Hổ phù có khả năng trấn áp tà khí, ngăn chặn điềm xấu và bảo vệ không gian tín ngưỡng.

den tho le hoan tho xuan cham khac ho phu

Ảnh: Hổ phù được tạc trên đầu hồi Nghi môn nội (cửa trong) vào đền thờ Lê Hoàn ở Thọ Xuân – Thanh Hoá. Ảnh: Tư liệu

kien truc dan gian truyen thong viet nam di san gom su rahu

Mỹ thuật thời Lê – Nguyễn ở Việt Nam, việc “rồng hóa” hay “sen hóa” là biểu hiện rõ nét của quá trình Việt hóa Rahu. Hồ phù được phổ biến trên tất cả các không gian tín ngưỡng từ đình, đền, miếu, và các đồ lễ khí như ngai kiệu, hương án, nó xuất hiện từ không gian cung đình cho đến nhà dân. Ảnh: Journeys in Hue

Qua thời gian, sự hiện diện bền bỉ của Hổ phù đã khiến nó trở thành một lớp văn hóa đặc sắc, kết tinh nhiều tầng ý nghĩa từ tín ngưỡng bản địa đến ảnh hưởng ngoại lai được Việt hóa tinh tế. Ngày nay, việc thấu hiểu các lớp nghĩa biểu tượng của Hổ phù không chỉ giúp bảo tồn giá trị di sản mà còn mở ra không gian sáng tạo phong phú cho các thiết kế đương đại, từ kiến trúc đến nghệ thuật ứng dụng, trên nền tảng văn hóa truyền thống sâu sắc. Sức sống của hình tượng này chính là minh chứng cho khả năng tiếp biến và sáng tạo không ngừng của văn hóa Việt Nam.

Thực hiện: Hà Giang


Xem thêm

Hoa văn trên trống đồng Đông Sơn (phần II): Di sản tạo hình của người Việt cổ

Mỹ thuật chạm khắc gỗ tại nhà cổ Trần Công Vàng

Tết đến ngắm nhìn đồ án trái cây – Lời chúc phúc của tổ tiên