Theo các tài liệu nghiên cứu về sắt mỹ nghệ ở Việt Nam, ở thời điểm cuối thế kỷ 19 và những năm đầu thập niên thế kỷ 20, có rất ít công trình kiến trúc sử dụng sắt trong trang trí. Ở phía Bắc, trong danh sách 36 phố phường Hà Nội có phố Lò Rèn (dân gian quen gọi phố Hàng Bừa vì người Hòe Thị, Đa Sỹ… kéo đến mở lò rèn, chuyên làm các loại răng bừa phục vụ cày cấy), nhưng thợ rèn ta chưa có thói quen và kỹ thuật chế tác các chi tiết sắt uốn mỹ nghệ phục vụ trang trí kiến trúc.
Một dấu mốc đáng nhớ trong nghề rèn sắt, khi tuyến đường tàu hỏa Hà Nội – Vân Nam được khởi công từ 1901 – 1910, phố Lò Rèn được người Pháp đặt hàng các bu-lông, con tán phục vụ việc xây dựng đường sắt. Sau đó, dưới sự phát triển mạnh mẽ các công trình kiến trúc thuộc địa tại Việt Nam từ 1910 – 1945, cùng với trào lưu sử dụng sắt uốn mỹ nghệ trong trang trí theo phong cách Art Nouveau và Art Décor đang làm mưa gió tại các nước phương Tây như Ý, Pháp, Tây Ban Nha… thợ rèn bản địa bắt đầu tham gia chế tác sắt mỹ nghệ, với nền tảng là hoa văn du nhập từ Pháp.
Yếu tố bản địa được các KTS người Pháp rất tôn trọng,
áp dụng vào nhiều công trình,
Trường Đại học Đông Dương xây dựng từ 1921 – 1927
với phần mặt dựng theo điều chỉnh của KTS Ernest Hébrard
là một ví dụ tiêu biểu
Trong số những công trình sử dụng chấn song hoa sắt sớm, gây chú ý ở Hà Nội là Nhà hát Lớn – hoàn thiện từ năm 1911 theo nguyên mẫu Nhà hát Opéra Garnier, Paris. Những đường nét chắc khỏe, bố cục đối xứng, uốn lượn mềm mại theo phong cách Art Nouveau, nhưng quy mô tiết chế tạo cho chấn song hoa sắt ở cửa ra vào Nhà hát Lớn Hà Nội điểm nhấn hòa hợp với kiến trúc bề thế của cả công trình.
Đến năm 1919, một công trình nổi bật khác ở Hà Nội sử dụng sắt mỹ nghệ trong trang trí chính là Bắc Bộ phủ, nay là Nhà khách Chính phủ ở 12 Ngô Quyền với thiết kế hoa sắt ở cổng rào, mái hiên và cửa đi theo phong cách Art Nouveau, nhưng được giản lược nhiều chi tiết hình học theo nguyên mẫu. Nhờ vậy công trình mang thiết kế đóng, nhưng lại rất mở bởi lớp ngăn cổng rào thanh thoát, duyên mảnh, tôn lên khối kiến trúc và mái hiên – một kiểu thức lặp lại như kiến trúc cửa hông Nhà hát Lớn Hà Nội – do kiến trúc sư Hector Guimard, đại diện tiêu biểu của trường phái Art Nouveau thiết kế.
Trong không gian nhiều công trình kiến trúc thuộc địa, chi tiết sử dụng sắt uốn mỹ nghệ làm biểu tượng trang trí giúp tôn lên vẻ đẹp cho tổng thể công trình. Sự lồng ghép hài hòa các hoa văn, họa tiết, các đường kỷ hà theo phong cách phương Tây và yếu tố bản địa đã tạo nên nhiều dấu ấn đặc biệt như hình ảnh lá cây Ô rô (Acanthus) hòa hợp với hoa sen, với đồ án liên châu kiểu Á Đông ở cánh cổng sắt Phủ Chủ tịch (trước là Phủ toàn quyền Đông Dương).
Đồ án hoa thị, hoa chanh, đồ án tên gia chủ
kết hợp hài hòa theo uốn lượn mềm mại
của phong cách Art Nouveau, Art Décor
cũng là những thiết kế độc đáo, đặc sắc
nơi cổng rào của kiến trúc thuộc địa.
Kiểu thức trang trí sắt uốn sử dụng đồ án Ô rô được lặp lại ở nhiều công trình khác như ở tư dinh Hui Bon Hoa (nhà chú Hỏa, tức Huỳnh Văn Hoa, nay là Bảo tàng Mỹ thuật TP.HCM). Thiết kế cổng rào trong kiến trúc thuộc địa không quá thiên về yếu tố ngăn cách, phòng vệ, trấn áp, biệt lập mà luôn biểu lộ sự thân thiện, gần gũi, duyên dáng, trở thành những biểu tượng đẹp trong kiến trúc đô thị.
Qua thời gian, dấu ấn và vẻ đẹp từ các công trình sắt uốn mỹ nghệ mang tính biểu tượng vẫn hiện hữu, định hình một giá trị, một di sản đặc biệt của kiến trúc đô thị đáng được lưu tâm, gìn giữ, nghiên cứu và phát triển.
Thực hiện & Ảnh: Nguyễn Đình.
Xem thêm: