Tân cổ điển (Neoclassical) là phong cách kiến trúc bắt đầu vào giữa thế kỷ XVIII ở Ý, Pháp và Đức. Trước đó hai thế kỷ, những trào lưu thịnh hành ở châu Âu là Phục Hưng và Baroque đã phần nào thể hiện sự hồi sinh của kiến trúc La Mã và Hy Lạp cổ. Tuy nhiên, kiến trúc Hậu Baroque lại có nhiều khuyết điểm trong thời hiện đại hóa. Vì vậy, sự ra đời của Tân cổ điển trong thời kỳ Khai sáng đã xóa bỏ bớt sự dư thừa của Hậu Baroque, điều hướng kiến trúc quay về hướng cổ điển thuần khiết hơn.
Kiến trúc Tân cổ điển bắt đầu ở Pháp từ giữa thế kỷ XVIII – khi các nhà văn và kiến trúc sư đưa ra giả thuyết về quyền lực tối cao giữa Hy Lạp cổ đại so với La Mã cổ đại, sau khi khám phá lại đền Parthenon và các cuộc khai quật tại Herculaneum và Pompeii. Về văn học, bộ đôi tác giả Charles-Nicholas Cochin và Jerome-Charles Bellicard đã xuất bản tác phẩm “Observations sur les antiquities de la ville d’Herculaneum” trong năm 1753, cùng năm đó, Abbé Marc-Antoine Laugier – một tu sĩ người Pháp đã xuất bản tác phẩm “Essai sur L’Architecture”, đặt ra mục tiêu xác định Chủ nghĩa Cổ điển là một nhu cầu hợp lý về nơi trú ẩn, minh họa cách giải thích của ông về nguồn gốc các ngôi đền đá như một “Túp lều nguyên thủy”. Năm 1762, kiến trúc sư James Stuart và Nicholas Revett đã xuất bản tác phẩm “Cổ vật của Athens”, mang lại ảnh hưởng cực kỳ lớn trong việc thúc đẩy Chủ nghĩa Tân cổ điển ở Anh. Nó đánh dấu sự trở lại với phong cách tối giản và kiến trúc mang tính hình học thuần túy, rõ ràng, tỷ lệ và đối xứng hơn. Việc sử dụng các ngôn ngữ kiến trúc từ thế giới cổ đại, như Doric, Ionic và Corinthian làm cấu trúc thay vì chức năng trang trí, cũng được khuyến khích. Đặc trưng bởi sự nghiêm túc về hình thức và sự vững chắc, Chủ nghĩa Tân cổ điển thống trị phần lớn kiến trúc Châu Âu và Châu Mỹ, mãi đến khi xuất hiện Phong trào Phục hưng Gothic từ cuối những năm 1830.
Đặc điểm của kiến trúc Tân cổ điển
Các thợ xây và kiến trúc sư Hy Lạp cổ đại đã phát triển một bộ quy tắc “Ba cấp bậc” (Three Orders) để quản lý tỷ lệ và thiết kế của các công trình. Vì vậy, các tòa nhà được xây dựng theo phong cách Tân Cổ điển đều tuân theo các trật tự sau: Doric, Ionic và Corinthian. Cách rõ ràng nhất để phân biệt giữa chúng là dựa vào kiểu dáng đặc biệt của các cột, bao gồm ba phần riêng biệt: “capital” (đầu cột) “shaft” (thân cột) và “pedestal” (đế cột).
Được sáng tạo bởi người Dorian, Doric là thức cột đầu tiên được phát triển, các quy tắc của nó chủ yếu được áp dụng cho phần bên ngoài của các công trình kiến trúc lớn và công trình công cộng. Thức cột cột Doric được biết đến vì sự đơn giản, thường sẽ không có “capital” và “pedestal”, nếu có thì chỉ là các bệ và đế bằng đá đơn giản và không trang trí. Tỷ lệ đường kính cột trên chiều cao cột là 1:5 đến 1:6, trong khi đó thân cột Doric sẽ rộng hơn phần đế với bề mặt phẳng hoặc có rãnh, thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp nam tính.
Thức cột Ionic được tuân theo Doric, bổ sung thêm các chi tiết trang trí đẹp mắt vào thiết kế cơ bản. Thức cột Ionia xuất phát từ vùng Ionia (Ιωνία) từ giữa thế kỷ VI trước Công nguyên; Ionia là vùng bao gồm bờ biển phía Tây Nam của Hy Lạp và các hòn đảo của vùng Tiểu Á – nơi mà người Hy Lạp định cư và thổ ngữ của người Ionia được sử dụng. Đầu cột Ionic có đặc điểm gồm hai vòng cuốn xoắn ốc (volute) được gắn trên đầu cột được trang trí gờ chỉ và các họa tiết khắc chìm. Khởi đầu, phần cuốn ốc này thường nằm trên một mặt phẳng, sau này được uốn cong ra ngoài ở các góc. Đặc điểm này làm cột Ionic trông mềm mại hơn cột Docric, người quan sát có thể quan sát được cả từ mặt đứng hoặc mặt bên của cột.
Được người La Mã sử dụng rộng rãi, Corinthian là loại thức cột cổ điển trang trí công phu nhất. Thức cột Corinthian bắt nguồn từ tên của 1 thành phố của Hy Lạp – Corinth. Nó được kiến trúc sư Callimachus – người Athen sáng tạo ra qua Công trình Đền thờ Apollo Epicurius tại Bassae ở Arcadia năm 450 – 420 trước Công nguyên. Toàn bộ công trình bên ngoài tuân theo trật tự Ionic, nhưng có một thức cột nằm bên trong có thiết kế Corinthian vô cùng đặc biệt.
Các công trình Tân Cổ điển thường sử dụng cột một cách dày đặc, phần giữa đỉnh cột và mái được gọi là phần tường bao và được thiết kế để bổ sung cho các loại cột khác nhau. Mặt hiên trước cửa ra vào và cửa sổ trong kiến trúc Tân Cổ điển sẽ có hình tam giác, gọi là pediment. Cửa số bố trí quanh công trình thường sẽ là loại cửa Sash hoặc cửa chớp đôi, cũng có thể được bổ sung một vài yếu tố trang trí đặc trưng như các đường khung cong, kính ô tròn hoặc dạng Palladian.
Những thể loại kiến trúc Tân cổ điển
Có ba biến thể chính của kiến trúc Tân cổ điển, đó là: khối cổ điển, tòa nhà theo kiểu điện thờ và kiến trúc Palladian. Những công trình theo hướng khối cổ điển thường có dạng hình chữ nhật hoặc hình vuông, các thiết kế này thường có mái bằng và bề ngoài gồm các cột hoặc vòm lặp lại để tạo nên một diện mạo giống như khối trang trí cổ điển. Điển hình như công trình Bibliothèque Sainte-Geneviève, được xây dựng từ 1843 – 1850 bởi kiến trúc sư người Pháp Henri Labrouste, đây được coi là một kiệt tác kiến trúc tân cổ điển bởi hình thức độc đáo; hay nhà hát opera Palais Garnier ở Paris, do Charles Garnier thiết kế, là một trong những ví dụ nổi tiếng nhất thế giới về phong cách khối cổ điển.
Những tòa nhà xây dựng theo kiểu đền thờ là một trong những loại kiến trúc đặc trưng nhất trong phong cách Tân Cổ điển. Đó là việc ứng dụng nét kiến trúc độc đáo của cổ xưa và hiện đại, mô phỏng nét đẹp những ngôi đền cổ, chẳng hạn như Điện Panthéon của Paris, dựa trên điện Pantheon ở Rome và Bảo tàng Anh lấy cảm hứng từ Hy Lạp. Bên cạnh kiểu điện thờ, kiến trúc Palladian nổi tiếng với nét đối xứng trang nghiêm, cổ điển và vẻ ngoài hoành tráng. Cột, trụ thường được kết hợp với cổng có cấu trúc vòm và các cửa sổ được sắp xếp theo tính chất đối xứng hoàn hảo – đây là một đặc điểm quan trọng của phong cách kiến trúc Tân cổ điển, mang đến không gian trang nghiêm, hoành tráng.
Kiến trúc Tân cổ điển trong bối cảnh hiện đại
Không phải vì không thuộc về thế kỷ XX, một trong những lý do tại sao chủ nghĩa cổ điển rất khó hồi sinh đối với những người tự coi mình là hiện đại, mà là vì nó đã từng được xem là một thứ rất tiến bộ và được thúc đẩy bởi những chế độ chính trị hà khắc. Nếu vào đầu những năm 1930, chủ nghĩa Tân cổ điển vẫn là phong cách kiến trúc thống trị ở Anh, Pháp và Mỹ thì đến năm 1939, chủ nghĩa Hiện đại đã gần như thay thế hoàn toàn nó. Tuy nhiên, điều này lại diễn biến ngược so với ở Đức, Ý và Liên Xô, các phong trào Hiện đại phát triển mạnh mẽ vào những năm đầu thế kỷ và nhanh chóng bị thoái trào.
Chế độ Đức Quốc xã kiên quyết phản đối kiến trúc hiện đại – thứ vốn đã phát triển mạnh mẽ ở Cộng hòa Weimar và Stalin. Sau khi nắm quyền lực tuyệt đối vào đầu những năm 1930, Đức Quốc xã cũng đã có hành động chống lại Chủ nghĩa Kiến tạo một cách gay gắt tương tự. Chủ nghĩa Tân cổ điển của Đức Quốc xã phát triển ở một mức độ nào đó theo phong cách cá nhân của các kiến trúc sư theo chủ nghĩa truyền thống như Paul Bonatz và Heinrich Tessenow.
Những thử nghiệm bền vững hơn của chủ nghĩa Tân cổ điển xuất hiện ở nước Ý Phát xít và Stalin (Nga). Đến cuối thời kỳ chế độ Phát xít ở Ý, chủ nghĩa Tân cổ điển chỉ là một trong nhiều xu hướng đang diễn ra, cùng với phong trào chủ nghĩa Hiện đại mạnh mẽ được ưa chuộng. Nhưng những dự án như thị trấn mới Sabaudia hoặc Tresigallo, ga Trung tâm Milan, bưu điện Naples và hầu hết các công trình tại quận EUR ở Rome – đều mang phong cách đặc biệt và kỳ lạ với những bề mặt trần trụi và các hàng cột trải dài, khiến người ta liên tưởng đến “Những bức tranh siêu hình” của Giorgio de Chirico. Trớ trêu thay, nét thẩm mỹ này lại được hồi sinh vào những năm 1970 bởi kiến trúc sư Cộng sản Aldo Rossi, (vào thời điểm đó nó được đổi tên thành Chủ nghĩa Hậu hiện đại). Kiến trúc này đã lan rộng sang đế chế Mussolini ở Libya, Ethiopia và Eritrea, nhưng chính ở Liên Xô dưới thời Stalin, chủ nghĩa Tân cổ điển mới thực sự mở rộng như một kiến trúc đế quốc – hay còn gọi là kiến trúc Stanlinist.
Trong những năm gần đây, kiến trúc Tân cổ điển dường như dần đang quay trở lại vị thế vốn có của mình. Quỹ Kiến trúc London thường xuyên tổ chức các sự kiện quy tụ những người theo chủ nghĩa Hiện đại và Cổ điển, quy tụ nhiều nhà phê bình ca ngợi kiến trúc sư Craig Hamilton là mẫu mực của thiết kế phi hiện đại mà vẫn mang tính cá nhân. Ngoài ra, cũng có vô số các công trình đặc biệt khác, chẳng hạn như tàn tích của Chipperfield tại Bảo tàng Neues ở Berlin, hay Lâu đài đá vôi của Taha ở Clerkenwell.
Thực hiện: Vân Thảo
Xem thêm:
Eco Brutalism: Kiến trúc thô mộc hòa cùng thiên nhiên
Hy Lạp: Cái nôi của Kiến trúc Cổ điển
Croatia: Vùng đất của những công trình kiến trúc La Mã cổ đại