Cụm di tích Yên Tử: Theo dấu chân Phật Hoàng lên đỉnh non thiêng

Từ chùa Trình dưới chân núi đến chùa Đồng trên đỉnh trời mây, mỗi ngôi chùa trên đường lên Yên Tử đều ghi dấu một chặng trong hành trình tu tập và hóa độ của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Giữa những tầng mây trắng, tiếng chuông chùa vẫn ngân nga như nhắc nhở người đời về một con đường hướng đến an nhiên.

Núi Yên Tử thuộc dãy Đông Triều, nằm ở ranh giới Quảng Ninh và Bắc Giang, cao hơn 1.000m so với mực nước biển. Đây là vùng địa hình hiểm trở, với khung cảnh rừng núi xen kẽ làn sương mù, không khí thanh khiết quanh năm. Ngay từ thời Lý, các thiền sư đã tìm về đây tu hành và lập chùa. Tới thế kỷ 13, Phật hoàng Trần Nhân Tông chọn Yên Tử làm nơi xuất gia, khai sáng thiền phái Trúc Lâm. Từ đó, núi thiêng trở thành điểm tựa tinh thần cho nhiều thế hệ, nơi kết tinh tư tưởng đạo học bản địa, truyền thống yêu nước và lý tưởng hướng thiện.

Ngày nay, Yên Tử là quần thể di tích quốc gia đặc biệt với hệ thống chùa tháp cổ, dấu tích thiền phái và không gian văn hóa được bảo tồn, phát triển. Trung tâm Văn hóa Trúc Lâm dưới chân núi là một nỗ lực tái hiện hồn cốt Phật giáo đời Trần bằng ngôn ngữ kiến trúc đương đại. Hành trình khám phá những ngôi chùa trên núi Yên Tử không chỉ là chuyến du ngoạn giữa chốn thiên nhiên, mà là cuộc trở về với những lớp trầm tích tinh thần đã hun đúc nên một phần bản sắc Việt.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Ảnh: Chùa Chiền Việt

1. Chùa Trình – Khởi đầu hành trình về đất Phật

Chùa Trình, tên chữ là Thắng Nghiêm Tự (勝嚴寺), còn gọi là chùa Bí Thượng, là điểm dừng chân đầu tiên trong hành trình hành hương về non thiêng Yên Tử – cái nôi của Thiền phái Trúc Lâm. Ngôi chùa nằm tại khu Bí Thượng, tổng Bí Giàng xưa (nay thuộc phường Phương Đông, TP. Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh), là ngã ba của ba tuyến đường cổ: một dẫn vào Yên Tử, một hướng về Thăng Long và một nối về phủ An Bang. Tương truyền, vua Trần Nhân Tông từng dừng chân tại đây trước khi lên núi tu hành, nên dân gian quen gọi là “chùa Trình” – nơi các Phật tử thập phương làm lễ “trình” trước khi lễ Tổ, “tạ” sau khi trở về.

phat giao bac giang quang ninh

Đền chùa Trình, nơi thực hành nghĩa lễ “đi trình về tạ”. Ảnh: Chùa Chiền Việt

Ngôi chùa được xây dựng theo bố cục “nội Công (工) ngoại Quốc (國)”, với các khối chính gồm Tiền đường, Tam bảo, Hậu đường (nhà Tổ), hai dãy Tả – Hữu vu và gác chuông. Mái lợp ngói mũi hài, bờ nóc đắp hoa chanh, đầu hồi gắn rồng nổi uốn cong hình sóng nước; chính giữa nóc Tiền đường là đại tự chữ Hán “賁上寺” (Bí Thượng Tự). Sân Tiền đường được lát đá xanh, Hậu đường lát gạch bát. Bên phải sân là khu Vườn Tâm, thiết kế theo hình chữ “Tâm” (心), gồm các đồi thông nhỏ, hồ Kim Quy và hồ hình đồng hồ cát. Khu vườn được sắp xếp hài hòa với địa hình, vừa là không gian thiền hành, vừa tạo nên một cảnh quan thiền vị gắn kết giữa đạo – đời – thiên nhiên.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Tiền đường. Ảnh: Tripmap

phat giao bac giang quang ninh

Hậu đường (nhà Tổ). Ảnh: Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh

Trong chính điện, tượng thờ được bài trí theo lớp lang: cấp trên cùng thờ Tam thế Phật; kế đến là Di Đà Tam Tôn; tiếp theo là Phật Thích Ca Niêm Hoa cùng hai vị tôn giả Ca Diếp và A Nan; dưới nữa là Phật Mẫu Chuẩn Đề và cuối cùng là tòa Cửu Long. Hai bên Tả vu – Hữu vu đặt tượng Thập bát La Hán. Gác chuông đặt phía trước Tiền đường. Ba ngôi tháp ba tầng trong khuôn viên là nơi tưởng niệm các vị tổ sư từng trụ trì. Hậu đường thờ Tam Tổ Trúc Lâm ở vị trí trung tâm, phối thờ Đức Thánh Trần, Tam Tòa Thánh Mẫu và một số pho tượng cổ từ ngôi chùa cũ. Các pho tượng trong chùa phần lớn được đúc đồng hoặc tạc từ gỗ mít, gỗ hương. 

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Bàn thờ Trúc Lâm Tam Tổ. Ảnh: Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh

phat giao bac giang quang ninh

Cổng Tam quan được dựng mới năm 2011, dẫn vào sân Đại Hùng – địa điểm tổ chức nhiều nghi lễ quan trọng trong năm. Ảnh: Tư liệu

Kể từ khi Ban Trị sự Phật giáo tỉnh đặt trụ sở tại chùa, nơi đây trở thành trung tâm văn hóa, hành chính, tu học và hoằng pháp của tỉnh Quảng Ninh. Mỗi mùa hạ, hơn 200 Tăng Ni trong tỉnh vân tập về đây để an cư kết hạ. Chùa cũng thường xuyên tổ chức khóa tu Ngày An Lạc vào thứ 7 và chủ nhật tuần thứ ba hàng tháng theo lịch âm, với khoảng 500 Phật tử tham dự. Các dịp lễ lớn như Phật đản, Vu lan, lễ vía Bồ Tát đều thu hút hàng ngàn tín đồ đến viếng thăm. Qua năm tháng, chùa Trình dần trở thành điểm quy ngưỡng của đông đảo Tăng Ni, Phật tử, đồng thời giữ vai trò là trung tâm sơn môn của Tổ đình Yên Tử.

2. Huệ Quang Kim Tháp (Tháp Tổ) – Nơi dòng thiền tụ hội

Nằm giữa khu vườn tháp linh thiêng trên lưng chừng núi Yên Tử, Huệ Quang Kim Tháp, còn gọi là Tháp Tổ, là nơi an trí xá lợi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Công trình được vua Trần Anh Tông, Đệ nhị Tổ Pháp Loa cùng các tăng sĩ Thiền phái Trúc Lâm khởi dựng vào năm 1309, một năm sau khi Điều Ngự Giác Hoàng viên tịch. Từ đó đến nay, Tháp Tổ trở thành điểm tâm linh trung tâm của vườn tháp Yên Tử, là nơi dâng hương tưởng niệm vị vua – thiền sư khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm, một tông phái Phật giáo mang đậm bản sắc Đại Việt. Không đơn thuần là chốn hành hương, Huệ Quang Kim Tháp còn được xem là nơi hội tụ linh khí của long mạch Yên Tử, được ví như cây bút giữa trời đất, tuôn chảy dòng thiền giác ngộ.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Toàn cảnh vườn tháp Huệ Quang từ trên cao. Ảnh: Yên Tử Tùng Lâm

Cấu trúc hiện tại của Tháp Tổ cao 7m, đặt trên nền đá xanh, bao quanh là tường ngói và vườn tháp rộng 180m². Do toàn bộ tháp đã được trùng tu vào thời Lê Trung Hưng nên dấu tích nguyên bản từ thời Trần chỉ còn lại ở phần nền và bệ sen. 

phat giao bac giang quang ninh

Ảnh: Emagazine

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Trước tháp là cây hương đá do Phật tử vùng Kinh Môn – Nam Sách cung tiến thời Lê, hai bên là hàng 97 tháp, mộ của các thiền sư đạo cao đức trọng, phía sau là hai mắt rồng tụ thủy, giữa đường lát gạch hoa cúc thời Trần, gợi nhắc con đường thuyết pháp của Phật Hoàng tại chùa Hoa Yên khi còn tu tập. Tất cả hợp thành cảnh quan cổ kính, đậm nét Phật giáo Trúc Lâm, nơi người hành hương có thể cảm nhận được sự thanh tịnh và uy nghiêm. Ảnh: Yên Tử Tùng Lâm

phat giao bac giang quang ninh

Tháp Tổ. Ảnh: Yên Tử Tùng Lâm

Điểm đặc biệt khiến Huệ Quang Kim Tháp trở thành di tích có giá trị quốc gia chính là pho tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông được an trí bên trong, hiện là bảo vật quốc gia được công nhận vào năm 2020. Pho tượng có giá trị độc bản, không trùng lặp với bất kỳ tượng nào khác về Ngài. Tuy được tạo tác dưới thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17), pho tượng vẫn giữ được chất liệu đá xanh đồng nhất với đá xây tháp thời Trần.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Nội thất tháp tôn trí pho tượng Phật Hoàng bằng đá cẩm thạch quý hiếm đặt trên bệ sen. Tượng thể hiện tư thế tọa thiền buông thư với pháp phục tam y theo chuẩn Phật giáo nguyên thủy. Ảnh: Emagazine

phat giao bac giang quang ninh

Cách tạo tác các chi tiết như vân mây hình đao lửa, lưng rồng kiểu yên ngựa hay hoa văn sen dây đều là điển hình mỹ thuật Lê Trung Hưng. Không chỉ lưu giữ tinh thần Thiền phái, pho tượng còn là minh chứng sống động cho trình độ mỹ thuật, điêu khắc tôn giáo thời kỳ này. Ảnh: Bảo tàng Quảng Ninh

3. Chùa Một Mái – Cổ tự níu bước người xưa

Nằm trên sườn núi phía Đông chùa Hoa Yên, chùa Một Mái là một trong những ngôi chùa đặc biệt nhất trong quần thể Yên Tử. Nguyên là động Thanh Long, nơi Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng dựng am Ly Trần để đọc sách, soạn kinh, về sau trở thành chùa Bồ Đà. Do một nửa chùa nằm trong hang đá, phần còn lại phô ra ngoài trời với chỉ một mái che, nên người xưa gọi là Bán Thiên Tự hay chùa Bán Mái, tên gọi “chùa Một Mái” cũng từ đó mà thành. 

Kiến trúc chùa Một Mái mang nét đặc trưng hiếm thấy trong hệ thống chùa Việt. Toàn bộ công trình được dựng bằng gỗ, cao hơn đầu người một chút, dài 9,6 mét, sâu 1,7 mét, chia làm bốn gian nhỏ. Phần phía trong ăn sâu vào vách đá, phần phía ngoài lộ thiên với một bên mái dốc. Mặt trước chùa được che chắn bằng hệ tường ván gỗ ghép liền. Bên trong, chùa vẫn giữ nguyên hệ thống tượng thờ và đồ thờ bằng đá trắng có niên đại từ cuối thời Lê sang đầu thời Nguyễn. Trên đường dẫn lên chùa, có hai ngôi tháp đá thời Lê nằm bên gốc cổ thụ, trong đó tháp Thanh Long là nơi tưởng niệm Thiền sư Nguyên Hội – người từng tu đắc đạo tại đây.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Chùa Một Mái xưa kia. Ảnh: Giáo hội Phật giáo tỉnh Quảng Ninh

phat giao bac giang quang ninh

Chùa Một Mái ngày nay. Ảnh: VinWonders

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Bàn thờ Trúc Lâm Tam Tổ trong chùa. Ảnh: Tư liệu

Tựa lưng vào vách đá, ngôi chùa nhỏ giữ gìn những dấu tích nguyên bản qua bao lần trùng tu, từ hệ thống tượng đá đến giọt nước ngầm trong vắt chảy ra từ lòng hang. Vào mỗi độ xuân sang, hoa mai vàng nở rộ trước hiên chùa, nhuốm sắc thiền thanh tịnh, nhắc nhở du khách về một chốn yên bình, nơi tinh thần Đại Việt và Phật giáo hòa quyện giữa trời cao núi thẳm.

4. Chùa Bảo Sái – Bóng thiền giữa mây

Ẩn hiện giữa lưng chừng núi ở độ cao 724 mét, chùa Bảo Sái là một điểm dừng đặc biệt trên con đường hành hương dẫn lên Hoa Yên rồi chạm tới đỉnh Phù Vân Yên Tử. Chùa mang tên vị Thiền sư Bảo Sái – đệ tử đầu tiên của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Nằm trên vách đá hướng Tây Nam, lưng tựa núi, mặt hướng ra thung sâu, chùa hiện lên thanh tịnh và trầm mặc trong màn sương mỏng của miền non thiêng.

phat giao bac giang quang ninh

Ảnh: Báo Dân Việt

Chùa Bảo Sái sở hữu bố cục quen thuộc của kiến trúc Phật giáo miền Bắc: chính điện dựng theo thế chữ Đinh (丁), gồm ba gian hai chái, gian hậu cung thờ tượng Phật. Nhà Tổ nằm kế bên, theo thế chữ Nhất (一), nơi đặt tượng Tam Tổ Trúc Lâm, Bảo Sái và Bồ-đề Đạt-ma. Phía sau chùa là khu gườm đá, nơi tôn trí tượng Phật Hoàng nhập Niết bàn, cạnh đó là tượng Thiền sư Bảo Sái trong tư thế quỳ trên bệ sen. Không gian thờ tự được mở rộng nhưng vẫn giữ được vẻ mộc mạc và gần gũi với thiên nhiên.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Không gian chính điện. Ảnh: Báo Dân Việt

phat giao bac giang quang ninh

Khu gườm đá. Ảnh: An Tam Tour

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Tượng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn và tượng Thiền sư Bảo Sái quỳ ngay bên cạnh. Ảnh: An Tam Tour

phat giao bac giang quang ninh

Bàn thờ sơn thần và giếng thiêng. Ảnh: Báo Dân Việt

Tương truyền, từng có một con hổ thường đến ngồi lặng bên gốc dổi mỗi khi sư tụng kinh gõ mõ. Ngày nhà sư viên tịch, hổ gầm vang giữa núi, ôm chặt thân cây cào xé rồi biệt tích. Hậu thế khắc ghi câu chuyện ấy bằng pho tượng hổ đá cạnh giếng thiêng và dòng chữ “Hổ bao niết linh” tạc trên vách núi. Dưới bóng cây dổi cổ thụ, những vết cào mòn theo năm tháng cùng bàn chân đá, rùa đá thiên tạo, tất cả hiện diện như những chứng tích sống động giữa mây núi Yên Tử.

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Gườm đá khắc ghi câu chuyện Phật Hoàng nhập Niết bàn trong một đêm tháng 11 năm 1308 ở góc chùa. Ảnh: An Tam Tour

5. Chùa Đồng – Chạm đến cõi tỉnh thức

Nằm ở độ cao 1.068 mét, Chùa Đồng là công trình nằm cao nhất trong quần thể danh thắng Yên Tử và cũng là ngôi chùa ở vị trí cao nhất Việt Nam. Đỉnh thiêng nơi chùa tọa lạc từ lâu đã được xem là điểm kết thúc của lộ trình hành hương, nơi người tu tâm đạt đến sự tỉnh thức sau khi vượt qua rừng trúc, suối Giải Oan, chùa Hoa Yên, am Ngọa Vân và tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tên gọi cổ “Thiên Trúc tự” gợi liên tưởng đến chốn Tây phương, nơi cư ngụ của chư Phật trong tín ngưỡng dân gian.

phat giao bac giang quang ninh

Chùa Đồng. Ảnh: Tư liệu

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Ảnh: Tư liệu

Dưới thời Hậu Lê, một bà phi của chúa Trịnh cho dựng tại đây khám thờ bằng đồng, khác biệt hoàn toàn với chất liệu gỗ truyền thống của các chùa Việt cùng thời. Tuy nhiên, công trình nhỏ bé này từng bị cuồng phong cuốn mái, sau đó chỉ còn dấu tích mờ nhạt. Năm 1930, chùa được dựng lại bằng bê tông cốt đồng, đến năm 1994 thì thay thế bằng một phiên bản đồng nguyên chất do cư sĩ Nguyễn Sơn Nam phát tâm công đức. 

Chùa Đồng có hình khối chữ Nhất, với mái ngói mũi hài bốn tầng, bờ nóc và đao mái chạm đầu rồng mang phong cách thời Trần. Mặt tiền chùa chia thành ba gian với bốn cột trụ, trong đó hai trụ ngoài vuông vức chạm câu đối, hai trụ trong tạc rồng quấn hình tròn. Nội thất tôn trí tượng Phật Thích Ca và Tam Tổ Trúc Lâm trên bệ sen, làm bằng đồng đặc, tinh xảo. Phiên bản chùa Đồng 1994 nằm trên đỉnh núi suốt 12 năm trước khi được hạ giải vào năm 2006 để nhường chỗ cho ngôi chùa Đồng hiện nay – một công trình đúc hoàn toàn bằng đồng, nặng khoảng 70 tấn, có diện tích gần 20m².

phat giao bac giang quang ninh

Chuông đồng. Ảnh: Tư liệu

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Khánh đồng. Ảnh: Tư liệu

phat giao bac giang quang ninh

Mái chùa có hình mũi hài, đầu nóc có hình đầu rồng mang phong cách thời Trần. Ảnh: Tư liệu

yen tu phat giao bac giang quang ninh

Cột cái tay ngai của chùa. Ảnh: Tư liệu

phat giao bac giang quang ninh

Tượng Phật Thích Ca và Tam Tổ Trúc Lâm. Ảnh: Tư liệu

Chùa Đồng không gắn liền với các lễ nghi sinh hoạt tôn giáo thường nhật, nhưng lại mang ý nghĩa biểu tượng đặc biệt trong lòng Phật tử và du khách. Trên nền đá bằng phẳng, giữa tầng không mờ sương, ngôi chùa hiện lên như một bông sen nở giữa trời. Từ đây có thể phóng tầm mắt qua trập trùng rừng núi Đông Bắc, cảm nhận rõ nét ý niệm “tu thân giữa đất trời”. Chính sự gian khó trong hành trình leo núi, sự thanh tĩnh trên đỉnh cao và niềm hứng khởi khi chạm tay vào một di tích linh thiêng đã khiến nơi này trở thành đích đến tinh thần của những người mộ đạo.

Thực hiện: Bảo Trân


Xem thêm: 

Tam Cốc – Bích Động: Vẻ đẹp sơn thủy và dấu ấn Phật giáo trên đất cố đô

Mộc Châu – Vùng đất của những lá trà nhất phẩm

Măng Đen: Thiên nhiên đại ngàn hùng vĩ