Với nghệ thuật làm tranh kiếng Nam Bộ, nơi cái đẹp không được cất giữ mà len vào đời sống hằng ngày của người dân. Sinh ra từ sự giao thoa của thủy tinh, sắc màu và ánh sáng, tranh kiếng là một phần hơi thở của đời sống, nơi chốn tâm linh, và thậm chí là cả phố phường đông đúc. Người ta có thể bắt gặp loại hình nghệ thuật này ở nơi trang nghiêm như phía trên bàn thờ tổ tiên, nhưng cũng có thể ở một nơi bình dân như trên tủ kính một xe hủ tiếu, với những họa tiết rực rỡ, là món ăn tinh thần cho thực khách trước khi bát ăn được dọn ra.
Khởi nguồn từ Trung Quốc và du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 19, nhưng qua bàn tay và tâm hồn của người dân Nam Bộ, tranh kiếng đã được Việt hóa một cách sâu sắc. Nó rời khỏi chốn cung đình Huế nơi từng minh họa cho thơ vua Thiệu Trị, để hòa mình vào mạch sống dân dã, trở thành một phần trong đời sống văn hóa và tín ngưỡng của người dân phương Nam. Nghệ thuật ấy cho đến hôm nay vẫn đang lấp lánh đâu đó giữa chốn phồn hoa, kể câu chuyện về một miền đất trọng nghĩa, trọng tình, và trọng cái đẹp được nuôi dưỡng từ chính đời sống thường nhật.
Dòng chảy tranh kiếng Nam Bộ
Đầu thế kỷ XX, Sài Gòn – Chợ Lớn với vai trò là trung tâm của cộng đồng người Hoa, đã trở thành cái nôi khai sinh nghệ thuật tranh kiếng. Tại đây, hai dòng tranh chính đã phát triển mạnh mẽ là tranh khánh chúc và tranh thờ phụng.
Tranh khánh chúc thường có chữ Hán thếp vàng trên nền đỏ, chuyên dùng để trao tặng trong các dịp lễ tết, khai trương, tân gia như một lời chúc phúc. Tranh thờ phụng vẽ các vị thần linh trong tín ngưỡng dân gian Hoa như Quan Công, Quan Âm, Thiên Hậu. Những bức tranh này không chỉ là di sản văn hóa mà còn là chỗ dựa tinh thần quý báu, mang đến sự bình an và gìn giữ bản sắc cho cộng đồng người Hoa nơi đất khách.

Ghé ăn tô hủ tiếu mì Tàu, vừa no bụng vừa được ngắm tranh kiếng.
Từ Chợ Lớn, tranh kiếng bắt đầu cuộc hành trình chinh phục miền sông nước. Theo những chuyến ghe xuồng, toa xe lửa, thứ nghệ thuật rực rỡ ấy lan tỏa khắp miền Đông và Tây Nam Bộ. Cứ mỗi độ Tết đến xuân về, việc sắm một bức tranh kiếng treo trong nhà không còn là thú chơi, mà đã trở thành một xu hướng, một ước mơ thầm kín của bao gia đình, như một lời cầu chúc cho một năm mới an khang.
Cơn sốt tranh kiếng đã biến vẽ tranh thành một nghề đầy triển vọng. Nhiều người trẻ với hoài bão lớn đã quyết chí lên Chợ Lớn “tầm sư học đạo”, theo đuổi giấc mơ trở thành nghệ nhân. Sau vài năm lĩnh hội ngón nghề, không ít người quay về quê hương, mở những xưởng tranh riêng, gieo mầm cho nghệ thuật tranh kiếng bung nở khắp các tỉnh thành. Chính từ dòng chảy đó, nhiều trung tâm tranh kiếng với những dấu ấn riêng biệt đã ra đời: Lái Thiêu với dòng tranh thờ Cửu Huyền Thất Tổ; Gò Công với kỹ thuật cẩn vỏ ốc tinh xảo; Bà Vệ (An Giang) ghi dấu ấn với các tích truyện; tuồng cổ đầy tính nghệ thuật; Dòng tranh kiếng Khmer Nam Bộ ở Trà Vinh, Sóc Trăng lại chuyên chở những chủ đề Phật giáo Nam Tông và các biểu tượng để trấn yểm tà ma, phản ánh đời sống tâm linh phong phú của cộng đồng.

Tranh kiếng Cửu Thiên Huyền Nữ ở Lái Thiêu. Ảnh: Tư liệu
Để khám phá sâu hơn về dấu ấn riêng của từng dòng tranh, độc giả có thể tìm đọc cuốn sách chuyên khảo Tranh Dân Gian Nam Bộ của tác giả Huỳnh Thanh Bình – một nguồn tư liệu quý giá giúp ta hiểu trọn vẹn hành trình của loại hình nghệ thuật độc đáo này.
Tranh kiếng trong đời sống người Nam Bộ
Tính cách hào sảng, giàu tình cảm của người Nam Bộ nhiều khi không cần đến lời nói, bởi tất cả đã được họ gửi gắm trọn vẹn vào ngôn ngữ của nghệ thuật. Và ở đó, những tấm tranh kiếng chính là phương tiện biểu đạt chân thực và sống động nhất cho cái tình, cái nghĩa của con người phương Nam.
Dòng chảy của tranh kiếng Nam Bộ muôn màu muôn vẻ, nhưng tựu trung quy về ba mạch nguồn chính, phản ánh rõ nét đời sống tâm hồn và văn hóa của vùng đất này:
Tranh thờ Cửu Huyền Thất Tổ là dòng tranh thiêng liêng nhất, đặt trên bàn thờ gia tiên, thể hiện sâu sắc đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Tranh được ghép từ 9 bức tranh nhỏ: Bức trên cùng vẽ tên họ tộc bằng chữ Hán; Bức lớn ở giữa vẽ cảnh sơn thủy nước non, ngụ ý công lao sinh thành của tổ tiên; Hai bức dọc hai bên viết bằng chữ Hán, nội dung là tôn vinh công đức tổ tiên; Các bức tranh nhỏ xung quanh mang đậm yếu tố Nam Bộ như hoa sen, chim muông, mâm ngũ quả…

Tranh cửu huyền thất tổ là nét đặc sắc trong văn hóa tâm thức của người Nam Bộ.
Tranh thờ Phật giáo và Tín ngưỡng phản ánh đời sống tâm linh phong phú, với các hình ảnh Đức Phật, Bồ Tát, các vị thần trong tín ngưỡng dân gian như Ông Địa, Ông Táo, Thần Tài, được treo ở khu vực thờ tự trong nhà và ở các ngôi đình, miếu, chùa.
Tranh trang trí gần gũi với đời sống thường nhật nhất, từ cảnh sơn thủy hữu tình, tứ quý, tứ thời cho đến những đề tài dân dã, được dùng để treo ở phòng khách hoặc trước cửa buồng phòng. Tranh có phong phú về chủ đề, từ đôi chim phượng để chúc phúc cho cặp đôi mới cưới, tích Tấm Cám để nhắc nhở con cháu sống có tình có nghĩa, cho đến tích Thoại Khanh-Châu Tấn để gợi lên lòng hiếu đạo.
Kỳ công nghề vẽ tranh kiếng
Điều làm nên sự khác biệt và cũng là thách thức lớn nhất của tranh kiếng so với các loại hình hội họa khác, chính là kỹ thuật vẽ ngược độc đáo. Thay vì vẽ trực tiếp lên bề mặt, người nghệ nhân phải thao tác ở mặt sau của tấm kính, và mặt trước mới là bề mặt hoàn thiện để ngắm nhìn. Điều này đồng nghĩa với việc mọi thứ đều bị đảo ngược: chi tiết nào sẽ được nhìn thấy trước (như tiền cảnh) phải vẽ sau cùng, còn hậu cảnh (như nền trời, mây) lại phải được vẽ đầu tiên. Đòi hỏi người nghệ nhân phải có một tư duy hình ảnh không gian đặc biệt và sự tính toán tỉ mỉ đến từng milimet.
Một tác phẩm tranh kiếng cần trải qua 3 bước chính: phóng tác (phác thảo) – vẽ nét (định hình) và đánh màu. Trước khi phóng tác trên kiếng, nghệ nhân thường phác thảo bằng bút chì nhám, dùng cọ sắc nét để lấy khuôn, có những nét cần sắc thì phải đánh bằng dao lam. Cuối cùng là đánh màu – công đoạn vừa đòi hỏi óc sáng tạo để tạo ra bản phối màu hợp ý hợp cảnh, vừa tuân thủ nguyên tắc như tô màu từ trong ra ngoài, tô liên tục không gián đoạn.

Nghệ nhân vẽ tranh kiếng, bên cạnh kỹ thuật, óc sáng tạo, còn phải am hiểu văn hóa vùng miền.
Nhiều nghệ nhân tài hoa đã góp phần làm nên dấu ấn trăm năm của nghệ thuật tranh kiếng Nam Bộ. Đầu tiên phải kể đến là nghệ nhân Tô Hà của tiệm Vĩnh Huê, Lương Chí Bằng của tiệm Tân Huê thuộc dòng tranh kiếng Chợ Lớn. Kế đến là nghệ nhân Lê Thị Tám, Nguyễn Thế Vinh của dòng tranh Bà Vệ, hay nghệ nhân Trương Cung Thơ của tranh kiếng Lái Thiêu. Điều khiến di sản của họ càng thêm đáng trân trọng, đó là họ chưa một lần đặt chân đến các trường lớp mỹ thuật chính quy. Tất cả tinh hoa đều được hun đúc từ kinh nghiệm thực tiễn, sự nhạy cảm thiên bẩm và một lòng đam mê cháy bỏng. Chính điều đó đã tạo nên những tác phẩm mang dấu ấn cá nhân sâu đậm, với những cách phối màu độc đáo, vừa rực rỡ lại vừa hài hòa.

Không gian tiệm tranh kiếng Vĩnh Huê ở Chợ Lớn, Sài Gòn. Ảnh: Odaucungchup

Triển lãm tranh kiếng Nam Bộ 2023 mang nghệ thuật dân gian đến gần mọi người.
Trải qua hơn một thế kỷ, tranh kiếng vẫn giữ nguyên vị trí không thể thay thế trong đời sống tâm linh và tinh thần của người dân Nam Bộ. Những tấm kính màu ấy không đơn thuần là cổ vật, mà là hiện thân sống động của một thuở “Nam Kỳ Lục Tỉnh” rực rỡ, và hơn hết, là một sợi dây kết nối vô hình, gắn kết các thế hệ qua vẻ đẹp thuần khiết của nghệ thuật dân gian.
Thực hiện: Thu Hà | Ảnh: Sưu tầm
Xem thêm:
Ký ức nhà cổ Nam Bộ: Nhà họ Trần, Long An