Ninh Bình không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp non nước hữu tình mà còn được biết đến như một miền đất Phật linh thiêng, nơi quy tụ nhiều ngôi chùa có giá trị đặc biệt về mặt tâm linh, lịch sử và kiến trúc. Nằm ẩn mình giữa núi non trùng điệp, soi bóng xuống những dòng sông uốn lượn hay vươn cao giữa thung lũng bao la, các ngôi chùa ở Ninh Bình mang đến cảm giác vừa hùng vĩ, vừa tĩnh tại, hài hòa cùng cảnh quan và gắn liền với những đường nét kiến trúc truyền thống Việt Nam. Chính sự hòa quyện hữu tình giữa thiên nhiên, lịch sử và văn hóa ấy đã khiến Ninh Bình trở thành điểm đến thu hút trong hành trình tìm về chốn tâm linh của phần lớn du khách.
1. Chùa Bái Đính
Khi nhắc đến những không gian thờ tự tại Ninh Bình, chùa Bái Đính chắc hẳn là cái tên tiêu biểu nhất, được xem như biểu tượng gắn liền với danh xưng miền đất Phật của cố đô. Quần thể này bao gồm hai khu vực: chùa Bái Đính cổ có niên đại hơn một nghìn năm và chùa Bái Đính mới được xây dựng vào năm 2003. Sự tồn tại song hành của hai công trình đã tạo nên một chỉnh thể độc đáo, vừa lưu giữ lớp trầm tích lịch sử, vừa thể hiện khát vọng mở rộng không gian Phật giáo trong đời sống đương đại.
Toàn cảnh Điện Tam Thế trong Quần thể chùa Bái Đính ở Ninh Bình. Ảnh: Kien1980v
Chùa Bái Đính cổ nằm trên sườn núi phía Tây, gắn với thời kỳ vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành và dấu ấn của Thiền sư Nguyễn Minh Không – người có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp. Khác với quy mô hoành tráng của chùa mới, chùa cổ ẩn mình trong hệ thống hang động đá vôi, thờ Phật, thờ Thần và các vị anh hùng dân tộc. Giếng ngọc và những pho tượng cổ tại đây phản ánh rõ nét đời sống tín ngưỡng của cư dân vùng châu thổ cách đây hàng thế kỷ, đồng thời cho thấy sự giao thoa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.
Chùa Bái Đính cổ được tu bổ. Ảnh: Kien1980v
Trong khi đó, chùa Bái Đính mới – khởi công năm 2003 bởi doanh nhân Xuân Trường phối hợp cùng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, được quy hoạch trên diện tích gần 700 ha, nắm chắc danh hiệu quần thể chùa lớn nhất Việt Nam. Điện Tam Thế, điện Pháp Chủ, điện Quan Âm và bảo tháp xá lợi Phật là những hạng mục trọng điểm, được xây dựng với gỗ lim, đá xanh và ngói mũi hài, tái hiện tinh thần kiến trúc thời Lý – Trần trên một quy mô bề thế chưa từng có. Rất nhiều kỷ lục được xác lập tại ngôi chùa này, chẳng hạn như hành lang La Hán dài nhất châu Á hay tượng Phật bằng đồng dát vàng lớn nhất, không chỉ mang tính biểu tượng mà còn khẳng định vị thế của Ninh Bình trên bản đồ Phật giáo khu vực.
Cổng Tam Quan, Bảo tháp nằm ở phía xa. Ảnh: Kien1980v
Điện Pháp chủ. Ảnh: Kien1980v
Hành lang La hán. Ảnh: Guerinf
Cầu đá vào cổng Tam Quan trong. Ảnh: Kien1980v
Phù điêu trần Bảo tháp. Ảnh: Kien1980v
2. Chùa Bích Động
Nằm tựa lưng vào dãy núi Trường Yên hùng vĩ, chùa Bích Động là một quần thể chùa hang cổ kính, đồng thời là một di tích quan trọng của hệ thống thắng cảnh Tam Cốc – Bích Động – Tràng An, đã được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt và đón nhận danh hiệu Di sản thiên nhiên và văn hóa thế giới từ UNESCO năm 2014.
Chùa Bích Động: Ảnh: Taylor
Ngôi chùa được khởi công xây dựng từ thời Hậu Lê, đến thế kỷ XVIII thì hai vị hòa thượng Trí Kiên và Trí Thể đã mở rộng, tạo nên một quần thể chùa – động độc đáo. Chính nhờ sự hòa quyện hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên và kiến trúc tâm linh, Bích Động được chúa Trịnh Sâm ban cho mỹ tự “Nam Thiên Đệ Nhị Động”, nghĩa là động đẹp thứ nhì trời Nam, chỉ đứng sau động Hương Tích ở Hà Nội.
Chùa Bích Động gồm ba ngôi chùa nhỏ: chùa Hạ nằm sát chân núi, chùa Trung ở lưng chừng và chùa Thượng vươn lên gần đỉnh núi. Ba ngôi chùa không tách biệt mà nối tiếp nhau theo triền đá, tạo thành một lộ trình hành hương tương đối thử thách nhưng vô cùng thiêng liêng. Kiến trúc chùa vẫn giữ nguyên nét cổ truyền Việt Nam với gỗ lim, mái ngói cong vút hình đuôi phượng, các gian thờ Phật trang nghiêm xen lẫn trong hang động đá vôi tự nhiên. Giữa chùa Trung và chùa Thượng còn có động Tối, nơi lưu giữ chiếc chuông đồng đúc năm 1707 cùng nhiều tượng và phù điêu chạm khắc trực tiếp trên vách núi, minh chứng cho trình độ nghệ thuật tinh xảo từ hàng trăm năm trước.
Chùa Hạ và chùa Trung nhìn từ đường đi vào động Thiên Cung. Ảnh: Thomhamilton
Chùa Trung trên lưng chừng núi. Ảnh: Tango7174
Chùa Trung trong hang Bích Động khô. Ảnh: BH KIM
3. Chùa Động Am Tiên
Chùa Động Am Tiên được bao quanh bởi dãy núi dựng đứng và ôm trọn một hồ nước trong xanh phản chiếu sắc trời, mang đến cảm giác thanh tịnh, hoàn toàn tách biệt với thế giới bên ngoài. Lịch sử nơi đây càng khiến cho không gian thêm phần nên thơ và kỳ bí bởi Am Tiên từng là nơi Thái hậu Dương Vân Nga – người giữ vai trò hoàng hậu rồi thái hậu song hành giữa hai triều, chọn làm chốn tu hành cuối đời. Đồng thời, đây cũng lưu giữ những giai thoại lịch sử liên quan đến địa danh Ao Giải, nơi vua Đinh nuôi cá sấu để trừng phạt những kẻ có tội.
Ao nuôi cá sấu. Ảnh: Kien1980v
Với địa thế cheo leo, toàn bộ vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc chùa Động Am Tiên nằm trên lưng chừng núi. Để đến được chùa, sau khi bước qua cổng tam quan, du khách sẽ đi lên hơn trăm bậc đá, men theo con đường uốn lượn vào bên trong hang – nơi chùa tọa lạc một cách kín đáo, tĩnh lặng và linh thiêng. Mái chùa cổ kính soi bóng xuống mặt nước như một bức tranh thủy mặc, không cầu kỳ nhưng huyền bí và linh thiêng khi kết hợp với ánh sáng và bóng tối. Những tia nắng len lỏi qua vách đá, hòa cùng tiếng chuông chùa, khiến không gian càng trở nên thơ mộng, gợi cảm giác như lạc bước vào một thế giới khác.
Cửa động Am Tiên. Ảnh: Kien1980v
Chùa động Am Tiên. Ảnh: Kien1980v
4. Chùa Dầu
Chùa Dầu, hay còn gọi là Linh Nha tự, là một trong những di tích Phật giáo tiêu biểu của vùng Trường Yên xưa. Khởi dựng từ thời vua Lý Thái Tông (1028-1054) nhưng cho đến thời Trần, ngôi chùa mới phát triển rực rỡ và trở thành trung tâm tín ngưỡng nổi bật trong khu vực. Trong bối cảnh kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần hai (1285), công chúa Huyền Tư chọn nơi này để tu hành và cho mở rộng quy mô chùa, xây dựng con đường rồng uốn khúc dẫn vào chùa, đồng thời được vua cha cấp 173 mẫu ruộng làm tư điền hương hỏa. Từ đó, chùa Dầu trở thành điểm đến tâm linh được nhiều tăng ni, Phật tử và nhân dân địa phương ngưỡng vọng.
Chùa Dầu. Ảnh: Sưu tầm
Trên diện tích khoảng 5.000 m², chùa xây theo kiểu nội công ngoại quốc, tiền Phật hậu Thần. Tiền đường gồm bảy gian gỗ lớn, đan xen hoa văn tứ linh tinh xảo, đặt các tượng Hộ pháp, Đức Ông và Đức Thánh Hiền mang vẻ oai nghiêm truyền thống. Trung đường là Tam bảo với biển chữ “Phật – Pháp – Tăng”, còn hậu cung nổi bật với bệ đá hoa sen chạm khắc thời Trần khá đồ sộ (dài hơn 3m, cao 1m) làm nền đặt tượng Tam Thế, hai bên dựng tượng phụ mẫu Trần triều. Các hiện vật như bệ hoa sen, bia Diên Thành (1582) và nhiều tượng cổ được lưu giữ ở đây minh chứng cho sự truyền nối kiến trúc qua các triều đại Lê – Nguyễn, tạo nên tổng thể lịch sử độc đáo và hài hòa.
Phù điêu mái chùa Dầu. Ảnh: Sưu tầm
Không chỉ là giá trị nghệ thuật, chùa Dầu còn là trung tâm văn hóa truyền thống khi tổ chức lễ hội lớn ba năm một lần, diễn ra vào dịp giỗ công chúa Huyền Tư (ngày 29 hoặc 30 tháng 2 âm lịch theo năm nhuận), kéo dài suốt ba ngày đêm, tạo nên dấu ấn văn hóa – tâm linh rất riêng, góp phần khẳng định vị thế của chùa Dầu như một biểu tượng văn hóa sống động của Ninh Bình.
5. Chùa Bàn Long
Nằm trong lòng núi Đại Tượng – dãy núi mang hình dáng hùng vĩ của loài voi quay đầu về chầu kinh đô Hoa Lư, chùa Bàn Long có tuổi đời hơn nghìn năm được xây dựng từ thời tiền Đinh, gắn bó mật thiết với quá trình hình thành và phát triển của vùng đất cố đô.
Tên gọi “Bàn Long”, tức Bàn Long Tự, nghĩa là “bệ đá rồng cuộn mình”, bắt nguồn từ truyền thuyết về nhũ đá tự nhiên hình rồng cuộn có vảy hiện ngay trong lòng hang. Vào thế kỷ XVIII, chúa Trịnh Sâm từng đến đây, cảm khái trước vẻ đẹp đồ sộ của ngôi chùa này nên đã đề ba chữ “Bàn Long tự” lên vách động, từ đó cái tên chính thức được lưu truyền cho đến ngày nay.
Chùa Bàn Long. Ảnh: Sưu tầm
Điều đặc biệt nhất tạo nên vẻ đẹp linh thiêng khó nhầm lẫn của chùa Bàn Long chính là không gian thờ Phật được hòa quyện hoàn hảo giữa thiên nhiên và kiến trúc Phật giáo. Bên trong hang động, pho tượng Phật A Di Đà bằng đá xanh nguyên khối đặt ở chánh điện, được chế tác ngay từ khi chùa mới thành lập là tượng Phật bằng đá cổ xưa nhất còn lưu giữ ở miền Bắc Việt Nam. Xung quanh tượng, nhũ đá tự nhiên tạo thành hình “ổ rồng”, cùng hàng loạt hình tượng Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng) chầu về trung tâm, bên cạnh những tạo hình kỳ ảo như tượng Phật cưỡi ngựa trắng, hổ chầu, voi phục… Tất cả đều được tạo hóa khéo léo tạc vào vách đá, mang đậm dấu ấn tâm linh và mỹ cảm độc nhất.
Quần thể Bàn Long không chỉ bao gồm chùa trong hang, mà còn có thêm các công trình nhà Tổ và phủ thờ Tam vị Thánh Mẫu (Liễu Hạnh công chúa, Quỳnh Hoa công chúa và Quế Hoa công chúa), khơi mở cuộc đối thoại giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Những cấu kiện gỗ chạm khắc tinh xảo thể hiện trình độ nghệ thuật điêu luyện của các nghệ nhân Hoa Lư xưa, góp phần tạo nên tổng thể kiến trúc đậm đà bản sắc cố đô.
Cửa động vào chùa. Ảnh: Sưu tầm
Động Bàn Long. Ảnh: Sưu tầm
Chùa Bàn Long đã được xếp hạng Di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1994, khẳng định tầm quan trọng về lịch sử và giá trị văn hóa của di tích. Trong các thời kỳ kháng chiến, chùa từng là nơi cất giữ trang bị, tổ chức hoạt động cách mạng, minh chứng cho vai trò tiên phong trong đời sống cộng đồng và lịch sử đấu tranh của vùng Hoa Lư.
Thực hiện: Thùy Như
Xem thêm:
Tam Cốc – Bích Động: Vẻ đẹp sơn thủy và dấu ấn Phật giáo trên đất cố đô