Mang theo ánh sáng đức tin, Công giáo đã vượt muôn trùng sóng gió để đến với các quốc gia châu Á . Trên con đường truyền giáo ấy, hội họa không chỉ là công cụ thị giác, mà còn là chiếc cầu nối giữa những khái niệm thần học xa lạ với tâm thức văn hóa bản địa. Chính nhờ hội họa, dáng hình Thiên Chúa dần thấm đẫm ngôn ngữ tạo hình phương Đông. Câu chuyện gồm 3 hồi – kể lại tiến trình du nhập, thích nghi và lưu dấu của Công giáo – một tôn giáo ngoại lai, vào các quốc gia châu Á.
Hình tượng Thánh Joseph, Đức mẹ Mary và Chúa Hài Đồng trong tranh cổ Trung Quốc cuối thế kỉ 19 (ảnh trái) và trong bức The Flight into Egypt trong khoảng 1530 – 1535 (ảnh phải).
Hồi 1: Chuyến hải trình mang Chúa đến phương Đông
Vào thế kỷ 16, khi những cư dân phía Đông địa cầu đang mải miết làm việc trên những cánh đồng, ca múa sau vụ mùa,… họ an tâm sống một đời bởi sự bảo bọc của các vị thánh thần, tín ngưỡng được tạo dựng qua ngàn năm tưởng tượng của tổ tiên, thì phía Tây đã rục rịch những chuyến hải trình khám phá mang theo sự tò mò và tham vọng vô biên về thế giới. Trên những đoàn tàu thám hiểm tiến về vùng đất xa lạ, các thủy thủ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha dù kiên dạ cũng cần có một đức tin để vượt qua con sóng dữ, bão lớn, đó là Chúa trời và những câu chuyện trong từng trang Kinh thánh. Hay những tu sĩ Dòng Tên mong mỏi đem Chúa đến từng ngóc ngách thế giới để truyền đi niềm yêu thương vô bờ của Ngài. Những ghi chép cho thấy, từ cuộc truyền đạo đầu tiên bởi Thánh Francisco Xavier tại Ấn Độ, cha Matteo Ricci ở Trung Quốc đã mang theo hình hài Thiên Chúa ẩn trong những câu chuyện dị thường, những bức họa đầy sắc màu và đậm chất kịch tính Baroque. Từ đây, cuộc viễn chinh tôn giáo rộng khắp xứ châu Á bắt đầu.
Công cuộc mang Thiên Chúa giáo đến phương Đông vừa khai màn đã gặp thử thách. Dẫu hồ hởi muốn những người lạ Châu Á đắm mình ngay trong tư tưởng tôn giáo ngoại lai với tôn chỉ yêu thương nhân thế, nhưng những con chiên ngoan đạo của Chúa hoàn toàn bất khả dĩ. Bởi tình yêu không có rào cản, nhưng ngôn từ lại có. Do sự khác biệt về hệ thống chữ viết, ký tự La tinh giản đơn, trong mắt những cư dân chỉ nhìn quen chữ tượng hình phức tạp vẫn quá đỗi khó hiểu. Làm sao để phá dỡ được bức tường ngôn ngữ để truyền đạt trực tiếp ý tưởng thần học trừu tượng? Hội họa với khả năng biểu đạt thông tin cảm xúc phi ngôn ngữ trở thành một cứu cánh giải quyết được tình thế bí bách này. Chân dung đặc tả vị thánh của tôn giáo lạ, tái hiện lại những câu chuyện ẩn dụ sâu sắc bằng hình ảnh diễm lệ giúp hình dung hóa sự tưởng tượng, đơn giản hóa những tầng triết luận với cư dân Châu Á. Những người đã luôn thõa mãn với sự từ bi của Phật, nghiêm trang của 108 vị La Hán giờ đã được thấy những vị thánh khác, Đức Chúa Jesu khổ hạnh, Đức Mẹ hiền từ qua những thánh tích và tranh ảnh châu Âu.
Bức Adoration of the Christ Child (bên trái) thuộc thời Hoàng đế Jahangir (trị vì 1605–1627) của Mughal – một triều đại Hồi giáo Ba Tư có nguồn gốc Thổ Nhĩ Kỳ-Mông Cổ, cai trị phần lớn tiểu lục địa Ấn Độ từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18. Giống như cha mình, Akbar, Jahangir quan tâm đến nghệ thuật và đối thoại Kitô giáo. Ông đã mời các tu sĩ Dòng Tên đến triều đình và chỉ thị cho các họa sĩ vẽ các chủ đề Kitô giáo dựa trên những bản in châu Âu mà các tu sĩ Dòng Tên chia sẻ. Bức tranh này được chuyển thể từ một bản khắc Flemish của Aegidius Sadeler II (bên phải).
Các nước phương Đông có tính cố hữu trong văn hóa, quen với những điều quen thuộc, truyền từ đời này sang kiếp khác, nhờ vậy mà tính bản địa rõ rệt và đặc thù. Dẫu đã tìm một lối khác là hội họa thay thế cho ngôn từ, các đạo hữu Kito vẫn cần thêm một bước để thực sự tiến vào lòng người dân: bản địa hóa. Đây là quá trình bắt buộc phải tiến hành, để một tôn giáo mới trở nên gần gụi và dễ tiếp cận. Bản địa hóa tôn giáo không phải là một quá trình đơn nhất, bao gồm sự thay đổi ở bề dạng bên ngoài và cả dung nạp tinh thần bên trong. Sự bản địa hóa ở hình thức bên ngoài cần cậy nhờ sự biến hóa của hội họa. Thiên Chúa và các vị thánh không còn những phục sức Tây phương mà khoác lên y phục truyền thống Châu Á, Hán Phục cầu kỳ, lớp Sari lộng lẫy,… Hậu cảnh với kiến trúc thánh đường, mái vòm đặc trưng, thiên nhiên lãng mạn xứ ôn đới cũng được thay thế bởi những hoa văn tráng lệ chạm khắc tỉ mẩn trên đầu cột khung cửa, nét thủy mặc gợi non nước trùng điệp. Tuy vẫn bảng màu tương đồng, cử chỉ, điệu hình tương đương và vẫn là những câu chuyện từ sách Thánh nhưng đã được cải biên để đậm đặc sắc màu châu Á. Người xứ này thấy được sự quen mà thuận mắt, đồng thời cũng nhìn ra sự lạ mà tò mò. Hội họa trong buổi đầu viễn chinh tôn giáo đã thực sự làm nên chuyện.
Hồi 2: Chúa bị buộc thu gọn trong lòng bàn tay
Nhờ hội họa và bản địa hóa mà Kito giáo đã thực sự thâm nhập vào đời sống của người dân châu Á. Người châu Á bên cạnh những tôn giáo nội địa, có thêm lựa chọn để đặt niềm tin, bởi vị thánh thần xuất xứ ở nơi nào cũng nhận vào mình trọng trách bảo bọc con người, trao cho con người những đặc ân khiến cuộc sống tốt đẹp. Cuộc truyền đạo sau thử thách đầu tiên đã đạt được quả ngọt ngào. Từ thế kỷ 17, bên cạnh những tu sĩ Kito, những thủy thủ ở bờ Tây địa cầu một lòng với Chúa, thì những con chiên ở bờ Đông cũng đã bắt đầu nhập đạo. Hội họa phục vụ tôn giáo mới cũng trở nên sôi động và leo dốc nhanh chóng. Quá trình bản địa hóa trong hội họa cũng táo bạo và toàn diện hơn, một sự nỗ lực nhìn thấy Thiên Chúa của các họa sĩ từ hai phương Đông Tây.
Tuyển tập The Life of Christ (1637) bởi Giulio Aleni gồm gần 60 bản tranh khắc cho Giáo hội ở Trung Quốc. Bản khắc nét dày chi tiết minh họa chính xác câu chuyện về cuộc đời khổ hạnh nhưng nhà truyền giáo Dòng Tên này đã dùng những yếu tố văn hóa Trung Hoa đặc trưng để cách tân hình ảnh Chúa Giêsu. Không chỉ ở tạo hình, The Life of Christ còn có những đoạn Hán ngữ nằm ở phía dưới để thêm thông tin cho hình minh họa. Các nhà truyền giáo đã thực sự chú trọng hình thức bản địa hóa để kéo gần hình ảnh Thiên Chúa đến với người dân Trung Quốc.
Bức Christ teaching in the Temple trong tuyển tập The Life of Christ của Giulio Aleni (ảnh trái) và phiên bản do Lodovico Mazzolino hoàn thành năm 1524 (ảnh phải).
Bức The Annunciation trong tuyển tập The Life of Christ của Giulio Aleni và phiên bản của Fra Angelico hoàn thành năm 1426 (ảnh phải).
Thánh Francisco Xavier sau hành trình Ấn Độ, Trung Quốc và Đông Nam Á đã dừng chân và bắt đầu truyền bá Kito giáo đến xứ sở Phù Tang xinh đẹp. Trong thời cực thịnh ban đầu, quá trình bản địa hóa tôn giáo diễn ra rất mực uyển chuyển và mượt mà qua những đồ hình. Trong tác phẩm Mười Lăm Bí Ẩn Kinh Mân Côi (原田家本マリア十五玄義図) chưa xác định rõ cụ thể thời kỳ và họa sĩ, khắc họa khoảnh khắc chính cuộc đời Chúa Jesus. Tuy vẫn giữ nguyên tạo hình nguyên bản, lối kỹ thuật Tây phương nhưng về bố cục của Mười Lăm Bí Ẩn Kinh Mân Côi lại hoàn toàn tương đồng với cấu trúc được sử dụng trong Mandala Taima (当麻曼荼羅) (763 SCN), tượng trưng cho cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Một chủ thể trọng tâm lớn được đặt chính giữa, bao quanh là những cụm chủ thể phụ nhỏ hơn, kích thước đồng đều.
Bức Mandala Taima.
Bức The Fifteen Mysteries of the Virgin Mary.
Dù được cư dân Châu Á mở lòng đón nhận và tôn sùng tựa như những tôn giáo bản địa khác, nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, Kito giáo bước qua thời u tối trong suốt 2 thế kỷ liền kề 18, 19. Từ những bức họa rạng rỡ, Thiên Chúa trong giai đoạn bài đạo bởi triều đình phong kiến bị buộc phải thu nhỏ kích thước để cất kín, giữ gìn, chờ đợi một bình minh mới cho Công giáo. Tôn giáo được sinh ra từ ước vọng tốt đẹp của con người về cuộc đời, nhưng con đường chính đạo chẳng lúc nào toàn vẹn, lịch sử đã ghi dấu biết bao thảm cảnh nhập nhằng chính trị và tôn giáo. Tôn giáo trong tay kẻ cầm quyền là quân bài bạo ngược khoác lớp vỏ thánh thần giả tạo lấp lánh, dùng niềm tin của đa số để đạt lợi ích thiểu số vượt bậc quyền lực. Một mặt đen tối đến đau lòng, hải trình truyền đạo, đôi khi dùng tôn giáo để thăm dò, chuẩn bị cho tiến trình xâm lược vùng đất màu mỡ phía Đông. Và đến khi mọi sự đã rồi, vị vua ngự trị ngai vàng mới cuống cuồng bài đạo, ra sức ngăn chặn những ảnh hưởng tôn giáo ngoại lai. Việt Nam là chứng thực xác đáng cho âm mưu này của thực dân Pháp. Từ tôn giáo, dần dà đến thâm nhập vào nội chính, phát đại bác đầu tiên của người Pháp bắn vào cảng biển Đà Nẵng đã rạch toang lớp bọc mang danh nghĩa tôn giáo.
Nguyên nhân khác đến từ sự xung đột về văn hóa và sắp xếp trật tự xã hội. Không năm thê bảy thiếp, phụ nữ không còn bị siết chặt bởi “công dung ngôn hạnh”,… thậm chí là không hương khói tổ tiên. Đối với trí thức và tầng lớp cầm quyền châu Á, Công giáo quả mối nguy họa làm lung lay đạo lý được ấn định vững vàng của Khổng giáo, Thần đạo,… Từ những trái ngược tuy nhỏ nhưng cũng khiến Công giáo khó lòng cắm rễ sâu hơn. Sự bản địa hóa cũng không thực sự đồng đều, vẫn có một số nhỏ các nhà truyền giáo vẫn giữ cái cao ngạo của người ngoại bang, khư khư giữ hình mẫu Tây phương, cũng góp vào sự phẫn nộ với Công giáo.
Đau lòng thay, hội họa là người mở đường cũng là kẻ chịu trận tan tác trong cuộc bài đạo siết cùng của chính quyền phong kiến, đặc biệt tại Nhật Bản và Việt Nam. Lửa đỏ hừng hực liếm đen cháy tranh Chúa, các con chiên của Chúa trải qua kiếp nạn đau thương, buộc xé rách tín ngưỡng trung thành, những mảnh niềm tin vụn vỡ dưới chân những sắc dụ cấm đoán của triều đình. Tưởng thành bụi tro nhưng lại một lần nữa hội họa tiếp tục là cứu cánh, là động lực nâng đỡ đức tin. Không chỉ nằm yên trong lòng bàn tay ấm của tín hữu, che lấp sau những vách tường, Chúa còn ngụy trang, ẩn mình trong hình hài của đạo Phật. Đức Maria Kannon là hình tượng Mẹ Đồng Trinh Maria của Công giáo tại Nhật Bản, ẩn trong dáng hình của Quan Âm Bồ Tát, vẫn dịu dàng ôm bế Chúa Hài Đồng non nớt thơ ngây. Một tương quan về cả tạo hình và nội hàm của sự từ bi đầy tính nữ.
Tượng Maria Kannon thời Edo ở Nhật Bản (ảnh trái), tượng Quan Âm thời Khang Hy ở Trung Quốc (ảnh giữa) và bức Virgin and Child Enthroned with two Musical Angels từ xưởng vẽ của Hans Memling trong khoảng 1433–1494 (ảnh phải).
Hồi 3: Bình minh mới
Đi qua màn đêm đẫm lệ và đón chào một bình minh mới, thế kỷ 20 đánh dấu bước ngoặt lớn của Công giáo khi được các nước châu Á “phán xử vô tội”, quyền tự do tôn giáo được thực thi. Song song đó quá trình hội nhập văn hóa trong Giáo hội Công giáo toàn cầu khuyến khích sáng tạo bản địa. Các tin hữu đón Tin Mừng bằng niềm hân hoan và hội họa sau chiến đấu âm thầm lại tiếp tục góp mặt trong cuộc vui tự do. Không còn là phải thu mình hay cải trang, nghệ thuật tôn giáo trở về đúng quy mô và sự trang trọng vốn có.
Hai tác phẩm The Virgin and the Child và The Birth of Jesus vẽ bởi Chen Yuandu (1902-1967) cho thấy một sắc thái mới. Vẫn là chuyện Chúa chuyển thế, được bản địa hóa mềm mại trên nền chất liệu Á Đông mộc mạc, ngũ quan Đức Mẹ lấy khuôn mẫu từ mực thước vẻ đẹp Trung Hoa nền nã, dịu dàng; gương mặt pha lẫn chút trầm tư, trìu mến trước Chúa con. Nét cọ vẫn đậm đà truyền thống bản địa nhưng kết hợp nhuần nhuyễn với lối vẽ theo luật phối cảnh Tây phương, tạo hình đặc tả hơn không chỉ dừng ở mức gợi hình. Màu sắc sáng tươi và rực rỡ để thấy được không khí canh tân nghệ thuật Công giáo.
Bức The Virgin and the Child và The Birth of Jesus vẽ bởi Chen Yuandu (1902-1967).
Bức The Last Supper do Wang Suda vẽ trong khoảng 1939 – 1941.
Cùng một đề tài, tác phẩm Chúa Giáng sinh (1941) của Lê Phổ vẽ bằng mực và bột màu trên lụa lại đậm đà tính Việt. Đức mẹ quỳ gối trong tư thế khiêm cung, hai tay chắp cao, mắt nhìn Chúa Hài Đồng âu yếm, đầu vấn khăn trắng, mặc quần lãnh trắng, áo dài mềm mại màu vàng trứng chanh. Bên cạnh có con trâu nhàn nhã thò đầu nhai rơm khô rải chuồng, bức vách trét đất bị lở giơ cả nan tre,hàng rào dậu nứa đan mắt cáo,đàn gà mẹ con đang bới đất tìm mồi, dưới gốc cây hoa đào trổ bông trắng hồng rực rỡ. Trong tranh ta gần như không còn thấy bất kỳ một sự ngoại lai Tây phương nào, hội họa trong thời điểm này đã mang tinh thần tuyệt đối bản địa, không tách rời bản địa.
Bức Chúa Giáng sinh của Lê Phổ, hoàn thành năm 1941 (ảnh trái) và bức Mystic Nativity của Sandro Botticelli, hoàn thành trong khoảng 1500 – 1501 (ảnh phải).
Cuộc viễn chinh tôn giáo qua từng nét cọ của hội họa vẫn đang được miệt mài vẽ tiếp, nhưng câu chuyện kể xin phép được dừng lại bởi đã xong 3 hồi. Trải qua biết bao thăng trầm, Công giáo giờ đây đã bắt rễ khá sâu sắc trong đời sống tín ngưỡng của người châu Á và hội họa phục vụ tôn giáo ấy cũng mang nhiều hơn những sắc thái khác. Nhờ hội họa mà ta thấy Thiên Chúa gần gụi, Đức Mẹ quen thuộc, đầy âu yếm yêu thương. Tôn giáo là niềm tin được nuôi dưỡng mà thành, hội họa thật hay luôn là làn nước mát, lung linh sắc của sự nuôi dưỡng ấy.
Series bài viết RE-visualize khám phá sự giao thoa đầy cảm hứng giữa các lĩnh vực sáng tạo về kiến trúc, đồ nội thất, thời trang và nghệ thuật. Tại đây, chúng ta sẽ cùng nhìn lại cách những ý tưởng, hình thái và phong cách được tái hình dung và lan tỏa đa ngành, tạo nên những bản thiết kế độc đáo và ấn tượng. RE-visualize mở ra góc nhìn mới về sự kết nối không giới hạn trong thế giới sáng tạo và nghệ thuật.
Thực hiện: Saya Nguyễn
Xem thêm
Ảnh hưởng từ nghệ thuật bất khả của M. C. Escher trong thiết kế đương đại | RE-visualize
Năm thế kỷ sơn mài Đông Á hòa mình vào dòng chảy nghệ thuật phương Tây
Tính nữ trong mỹ thuật Việt (Kỳ cuối) – Dưới ánh sơn mài diễm lệ