Với khả năng không thấm nước, chịu nhiệt tốt, phản chiếu ánh sáng cùng những màu sắc rực rỡ, đồ sơn mài Nhật Bản đã trở thành điều kỳ diệu trong mắt người châu Âu thế kỷ XVI – những ai chưa từng chứng kiến vật dụng nào sở hữu vẻ đẹp và tính năng vượt trội như vậy. Nhận ra cơ hội thương mại, các thương gia Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến Nhật Bản đã đặt hàng những món đồ họ tin chắc sẽ được ưa chuộng tại quê nhà: rương, tủ, giá sách và bàn xếp. Tất cả đều mang phom dáng quen thuộc của châu Âu, nhưng được khoác lên mình lớp sơn mài đen bóng đặc trưng của Nhật Bản, điểm xuyến bằng chi tiết thếp vàng và khảm xà cừ tinh xảo. Phong cách trang trí này được người Nhật đặt tên là namban – có nghĩa “tộc man di phương Nam”, ám chỉ phương hướng những con thuyền chở các vị khách da trắng “mọi rợ” từ châu Âu đến. Một cách gọi tên vô tình phản ánh quan niệm thời bấy giờ của người Nhật về những người phương Tây.
Một chiếc rương sơn mài namban. Ảnh: Tư liệu
Thực tế, nghệ thuật sơn mài đã có mặt tại Nhật Bản từ nhiều thế kỷ trước khi những thương gia Bồ Đào Nha đầu tiên đặt chân đến đây. Sơn mài Đông Á được chế tác từ nhựa cây sơn mài Trung Quốc (Toxicodendron vernicifluum), qua quá trình đun nóng để loại bỏ tối đa lượng nước, đồng thời có thể pha thêm thuốc nhuộm để tạo sắc màu mong muốn. Nhựa sơn được phủ lên bề mặt thành từng lớp mỏng manh, sau đó trải qua quá trình đóng rắn trong điều kiện ấm áp và ẩm ướt. Chính quá trình polime hóa đặc biệt này đã tạo nên những đặc tính độc đáo khiến sơn mài Đông Á trở nên vô cùng quý giá.
Âu giữ nhiệt cuối thế kỉ 17. Ảnh: 1stdibs
Bước sang năm 1600, các thương gia Hà Lan và Anh bắt đầu gia nhập thị trường giao thương Đông Á. Lúc đầu, họ vẫn ưa chuộng sơn mài namban. Tuy nhiên, suốt thế kỷ XVII, họa tiết trên đồ sơn mài xuất khẩu của Nhật Bản dần chuyển mình theo hướng thanh thoát hơn, từ những chi tiết dày đặc chuyển sang hình ảnh thơ mộng với chim chóc, hoa lá hay phong cảnh thiên nhiên. Một trong những ví dụ táo bạo nhất về việc ứng dụng sơn mài Nhật Bản vào nội thất châu Âu chính là sáng kiến của Công chúa Amalia von Solms xứ Orange vào những năm 1650. Bà đã cho tháo rời các tấm bình phong và rương sơn mài, biến chúng thành vật liệu ốp tường cho một căn phòng tại Huis ten Bosch ở ngoại ô The Hague – một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ khi đó.
Căn phòng ốp bình phong sơn mài khảm xà cừ của công chúa Amalia von Solms. Ảnh: Dirk Wandel
Cuối thế kỷ XVII chứng kiến sự xuất hiện của một loại sơn mài Trung Quốc đặc biệt thu hút sự chú ý của châu Âu. Được gọi là Coromandel – theo tên vùng ven biển Ấn Độ nơi những sản phẩm này được vận chuyển đến phương Tây, loại sơn mài này nổi bật với nền đen tuyền và họa tiết rực rỡ được tô màu trên bề mặt chạm khắc tinh xảo. Cùng thời điểm đó, các nghệ nhân châu Âu bắt đầu nỗ lực sao chép kỹ thuật sơn mài Đông Á, tuy nhiên chất lượng vẫn còn không ổn định. Một bước đột phá quan trọng diễn ra tại Anh năm 1688, khi John Stalker và George Parker xuất bản cuốn “A Treatise of Japanning and Varnishing” – cuốn cẩm nang đầu tiên hướng dẫn nghệ thuật làm sơn mài. Thuật ngữ “Japanning” trong tựa sách không chỉ đơn thuần chỉ kỹ thuật sơn mài mà còn mang ý nghĩa gợi tả về vẻ đẹp tinh tế của phương Đông. Những công thức chi tiết được ghi chép trong cuốn sách này hé lộ sự khéo léo của các nghệ nhân phương Tây trong việc tái hiện hiệu ứng sơn mài Đông Á bằng những vật liệu hoàn toàn khác biệt. Chẳng hạn, để tạo ra bình phong Coromandel, họ sử dụng da được sơn bóng và thếp vàng – một cách tiếp cận sáng tạo thể hiện khát vọng chinh phục vẻ đẹp phương Đông bằng chính tay nghề của mình.
Một trong bộ ghế do Giles Grendey thiết kế, với chi tiết trang trí mô phỏng hiệu ứng sơn mài Nhật Bản.
Năm 1693 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng khi Công ty Thương mại Đông Ấn Hà Lan quyết định ngừng nhập khẩu sơn mài Nhật Bản do giá thành quá cao. Cơ hội này được các nghệ nhân Trung Quốc nhanh chóng nắm bắt và bắt đầu sản xuất những sản phẩm mô phỏng phong cách vàng-đen đặc trưng của Nhật Bản với chi phí cạnh tranh hơn. Suốt thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, bình phong, bàn và tủ từ Trung Quốc tiếp tục chiếm được cảm tình của người phương Tây. Đồng thời, sơn mài kiểu Nhật Bản cũng đã len lỏi sâu vào ngành sản xuất đồ nội thất Anh, trở thành một yếu tố không thể thiếu.
Tủ kiểu Louis XV với trang trí sơn mài Trung Quốc. Ảnh: Culture Club
Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của trào lưu chinoiserie trong nội thất Anh – nghệ thuật tái hiện vẻ đẹp châu Á qua góc nhìn phương Tây. Những tác phẩm này khéo léo vay mượn các yếu tố thiết kế Đông Á như chân cabriole uốn lượn và họa tiết hình học tinh xảo, kết hợp cùng lớp sơn mài rực rỡ sắc màu, mô phỏng những suy tưởng về phương Đông đầy mơ mộng và kỳ ảo. Trong số những tên tuổi nổi bật của thời kỳ này, thợ làm tủ Giles Grendey đã tạo nên tiếng vang với bộ sưu tập đồ nội thất sơn mài đỏ kiểu Nhật Bản dành riêng cho Công tước Infantado của Tây Ban Nha, trong khi Thomas Chippendale khẳng định vị thế với những kiệt tác nội thất sơn mài đa sắc màu ấn tượng.
Tủ gỗ do Giles Grendey thiết kế.
Giữa thế kỷ XIX, khi Nhật Bản chấm dứt thời kỳ bế quan tỏa cảng, kho tàng nghệ thuật và đồ trang trí phong phú đã tạo nên làn sóng nhiệt tình lan tỏa khắp phương Tây. Sơn mài Nhật Bản bắt đầu có mặt tại các triển lãm quốc tế lớn cuối thế kỷ XIX, đồng thời được phân phối rộng rãi tại các cửa hàng Anh thời Victoria, từ phân khúc cao cấp đến trung cấp. Thời kỳ này chứng kiến một nghịch lý thú vị: một mặt, Nhật Bản vẫn được lý tưởng hóa như một vương quốc bí ẩn chứa đựng vẻ đẹp tinh tế tuyệt đối; mặt khác, việc tìm hiểu nguồn gốc và bản chất thực sự của nghệ thuật Nhật Bản được quan tâm một cách nghiêm túc chưa từng có.
Bước sang đầu thế kỷ XX, sự cởi mở ngày càng tăng đối với thẩm mỹ Đông Á đã truyền cảm hứng cho các nhà thiết kế và nghệ nhân tài ba như Eileen Grey và Jean Dunand. Họ không chỉ học hỏi từ các bậc thầy Nhật Bản mà còn sáng tạo nên những tác phẩm nội thất sơn mài chính thống, hòa quyện tinh thần truyền thống với ngôn ngữ thẩm mỹ hiện đại. Cùng thời điểm ấy, biểu tượng thời trang Gabrielle Chanel đã chọn những tấm bình phong Coromandel của Trung Quốc để trang trí căn hộ trên phố Rue Cambon tại Paris, khẳng định vị thế đặc biệt của sơn mài trong không gian sống đương đại. Từ nguồn cội Đông Á, sơn mài đã thực sự hòa nhập và trở thành một phần không thể tách rời trong DNA thiết kế phương Tây.
Bình hoa của Marutomi do Ettore Sottsass thiết kế. Ảnh: 1stdibs
Coco Chanel trong căn hộ của bà tại Rue Cambon. Ảnh: Chanel
Tủ sơn mài của Philip Gorrivan trong một căn hộ tại Fifth Avenue.
Thực hiện: Hoàng Lê
Xem thêm