Lồng đèn: Dấu chỉ ánh sáng mùa Trung thu

Từ tục thắp đèn hội nguyệt trong văn hoá Á Đông, qua quá trình bản địa hóa trong đời sống làng xã Việt Nam, lồng đèn đã trở thành món đồ chơi dân gian độc đáo, gắn liền với ký ức tuổi thơ và tình cảm cộng đồng.

Tháng Tám âm lịch theo truyền thuyết là đêm thu đẹp nhất trong năm: trăng to, tròn và sáng vằng vặc. Tiết trời mát mẻ, mùa vụ đã xong, người dân tận hưởng cảm giác yên bình, thanh thản sau những ngày lao động mệt nhọc. Trong dịp ấy, người Á Đông thường làm cỗ cúng gia tiên, bày bánh trái ra sân dâng trăng, gia đình sum họp đông đủ để con cháu bày tỏ lòng hiếu kính với ông bà. Người lớn thưởng trăng, uống rượu, hát trống quân; trẻ em rước đèn, xem múa lân, ca hát quanh mâm cỗ đầy hoa quả. Chính từ nhịp sống nông nghiệp ấy, Tết Trung thu – lễ hội dành riêng cho những ngày trăng rằm tháng Tám, đã được hình thành và lưu truyền. Xuất phát từ Trung Hoa cổ đại với nghi thức bái nguyệt, Trung thu đã lan tỏa khắp khu vực và sớm được bản địa hóa trong đời sống người Việt. Từ một lễ hội mùa màng, Trung thu dần trở thành một trong những ngày hội quan trọng nhất trong năm, là dịp để trẻ em tận hưởng niềm vui tuổi thơ với trò chơi dân gian, tiếng trống múa lân và đặc biệt là ánh sáng lung linh của những chiếc lồng đèn.

long den trung thu do choi tuoi tho

Ảnh: Kim Thủy

Nguồn gốc và ý nghĩa của lồng đèn Trung thu

Lồng đèn – thành tố trung tâm của Trung thu, vốn có gốc rễ từ tập quán thắp sáng trong các lễ hội Á Đông. Ở Trung Hoa, từ thời Hán – Đường đã xuất hiện tục “thắp đèn hội nguyệt”, vừa mang ý nghĩa chiếu sáng, vừa là biểu hiện của sự tôn kính thiên thể. Khi du nhập vào Việt Nam, hình thức ấy được biến đổi, hoà quyện cùng mỹ cảm dân gian và nhu cầu chơi đùa của trẻ em, dần hình thành nên lồng đèn Trung thu như ta thấy ngày nay.

long den trung thu con ca

Ảnh: NSNA Nguyễn Phúc Bảo Minh

Khác với Trung Quốc – nơi lồng đèn thường gắn với kiến trúc cung đình, lễ hội quy mô lớn hoặc những dịp long trọng như cưới hỏi, đưa tang, lồng đèn ở Việt Nam mang đậm tính cộng đồng làng xã. Người dân tận dụng chất liệu sẵn có như tre, nứa, giấy dó, giấy kiếng… để sáng tạo ra những chiếc đèn vừa mộc mạc vừa giàu tính biểu tượng. Chính quá trình “bản địa hoá” này đã khiến lồng đèn Việt trở thành một sản phẩm thủ công mang đậm dấu ấn văn hoá địa phương, chứ không chỉ đơn thuần là vật du nhập.

trung thu do choi tuoi tho

Ảnh: Tư liệu

Ở cấp độ biểu tượng, lồng đèn Trung thu là sự tổng hòa của ánh sáng, hình khối và chất liệu – ba yếu tố tưởng chừng đơn giản nhưng lại chứa đựng nhiều tầng nghĩa. Ánh sáng từ ngọn nến nhỏ trong chiếc đèn tượng trưng cho tri thức, cho hy vọng và khát vọng hướng về một tương lai tươi sáng. Hình khối của lồng đèn, khi là ngôi sao năm cánh, khi là cá chép, thỏ ngọc hay bươm bướm, đều bắt nguồn từ những mô-típ trang trí huyền thoại của mỹ thuật dân gian, qua đó giúp trẻ em vừa vui chơi vừa tiếp cận các tích truyện một cách tự nhiên. Chất liệu tạo nên lồng đèn, từ tre, nứa, giấy dó cho tới giấy kiếng, lại phản ánh tri thức bản địa và tay nghề thủ công truyền thống. Nhờ vậy, lồng đèn vượt ra khỏi chức năng vui chơi để trở thành một phương tiện biểu đạt văn hoá, nơi ký ức và khát vọng của cộng đồng được gửi gắm và tái hiện qua từng mùa trăng.

Các loại lồng đèn truyền thống và các làng nghề sản xuất đèn Trung thu

Lồng đèn Trung thu có sự đa dạng cả về hình thức lẫn kỹ thuật chế tác. Đầu tiên những đoạn tre tốt sẽ được tuyển chọn để chẻ, vót, cắt nan và lên khung. Sau khi khung hoàn thành, giấy kiếng được dán lên, đồng thời thực hiện công đoạn cuối cùng là vẽ hoa văn trang trí. Hình dạng phổ biến và gần gũi nhất là đèn ông sao, với kết cấu khung tre năm cánh cân đối, phủ giấy kiếng rực rỡ. Đây được xem là biểu tượng đặc trưng của Trung thu Việt Nam, bởi sự đơn giản trong chế tác, thuận tiện khi cầm và quen thuộc với trẻ em ở khắp mọi miền.

long den trung thu do choi tuoi tho

Một số công đoạn làm lồng đèn kiếng truyền thống. Ảnh: Phúc Kha

trung thu do choi tuoi tho

Lồng đèn hình sao năm cánh.

Những hình thức khác như đèn cá chép, đèn thỏ ngọc hay đèn bươm bướm phản ánh mối liên hệ chặt chẽ giữa lồng đèn Trung thu và kho tàng biểu tượng dân gian. Hình tượng cá chép gắn liền với tích truyện “cá chép vượt vũ môn hóa rồng” – một ẩn dụ quen thuộc của triết lý Á Đông về sự nỗ lực vươn lên, vượt khó để đạt đến thành công. Bởi vậy, đèn cá chép thường được dùng để gửi gắm kỳ vọng của người lớn dành cho trẻ nhỏ: mong chúng trưởng thành, học hành giỏi giang, nên người. Trong khi đó, thỏ ngọc lại liên hệ trực tiếp đến truyền thuyết cung trăng, nơi thỏ giã thuốc trường sinh dưới ánh trăng rằm. Còn hình ảnh bươm bướm, vốn xuất hiện nhiều trong ca dao, tranh dân gian và thơ cổ, gợi nhớ về cảm thức lãng mạn, tự do, nhẹ nhõm. Khi trở thành hình mẫu cho lồng đèn, nó tượng trưng cho niềm vui tuổi thơ, cho khát vọng được bay nhảy, hồn nhiên.

long den trung thu do choi tuoi tho

Lồng đèn cá chép hóa rồng. Ảnh: Đức Huy

trung thu do choi tuoi tho

Lồng đèn hình bươm bướm.

Đặc biệt, đèn kéo quân là minh chứng tiêu biểu cho tính sáng tạo nghệ thuật trong đồ chơi dân gian. Với cấu trúc trụ tròn, bên trong gắn những hình cắt giấy mô phỏng cảnh sinh hoạt, binh lính hay tích truyện cổ, đèn kéo quân vận hành nhờ sức nóng của ngọn nến, khiến các hình ảnh quay vòng, tạo thành một hoạt cảnh sống động. Đây là dạng đèn cầu kỳ, đòi hỏi tay nghề cao, thể hiện rõ khả năng kết hợp giữa kỹ thuật thủ công và trí tưởng tượng mỹ thuật của người thợ.

long den trung thu do choi tuoi tho

Đèn kéo quân bắt nguồn từ điển tích về sự hiếu thảo của chàng trai nghèo Lục Đức.

trung thu do choi tuoi tho

Nghệ nhân Nguyễn Văn Quyền chế tác đèn kéo quân. Ảnh: Hà Phương – Quý Đức

Các làng nghề sản xuất lồng đèn truyền thống

Cùng với sự phong phú của hình thức, lồng đèn Trung thu còn gắn bó mật thiết với những làng nghề thủ công. Tại Nam Định, làng Báo Đáp nổi tiếng với nghề làm đèn ông sao. Mỗi mùa Trung thu đến, cả làng lại rộn ràng với tiếng chẻ tre, dán giấy. Những chiếc đèn ông sao từ Báo Đáp không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn được xuất khẩu, trở thành sản phẩm đại diện cho văn hoá lễ hội Việt Nam.

long den trung thu do choi tuoi tho

Làng nghề lồng đèn Báo Đáp (Nam Định – nay là Ninh Bình sau sáp nhập).

Trong khi đó, ở Sài Gòn – Chợ Lớn, từ đầu thế kỷ XX đã hình thành nên nhiều phố nghề làm đèn Trung thu, chủ yếu do cộng đồng người Hoa đảm nhiệm. Những chiếc đèn giấy thủ công tại đây thường cầu kỳ về chi tiết, đa dạng về kiểu dáng, góp phần làm nên không khí Trung thu sôi động cho đô thị lớn nhất Nam Bộ.

trung thu do choi tuoi tho

Làng nghề lồng đèn Phú Bình (quận 11 – phường Hòa Bình sau sáp nhập, TP.HCM).

Những làng nghề này không chỉ sản xuất lồng đèn, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì tính liên tục của di sản. Qua từng thế hệ, họ đã biến công việc thủ công thành một dạng ký ức sống, vừa bảo tồn kỹ thuật truyền thống, vừa gìn giữ hồn cốt lễ hội Trung thu của người Việt.

Giá trị văn hoá và ký ức tuổi thơ

Lồng đèn Trung thu, nếu nhìn ở bề mặt, chỉ là một món đồ chơi đơn giản; nhưng ở tầng sâu văn hoá, nó trở thành một dạng ký ức tập thể. Hình ảnh trẻ em rước đèn, tay cầm chiếc ông sao hay cá chép, miệng hát ca dưới ánh trăng rằm, đã in đậm trong tâm thức của bao thế hệ người Việt. Đây không chỉ là trò vui tuổi thơ, mà còn là một nghi thức cộng đồng.

long den trung thu do choi tuoi tho

Lồng đèn trên đường phố Hà Nội xưa. Ảnh: Tư liệu

Hơn thế, lồng đèn còn đóng vai trò như một cầu nối thế hệ. Ông bà, cha mẹ cùng con cháu ngồi bên nhau, tỉ mỉ chẻ tre, dán giấy, kể cho nhau nghe những câu chuyện dân gian về chị Hằng, chú Cuội, thỏ ngọc. Quá trình ấy vừa là lao động thủ công, vừa là giáo dục văn hoá, giúp trẻ nhỏ tiếp nhận các giá trị truyền thống thông qua trải nghiệm sống động đầy niềm vui, thay vì giáo điều cứng nhắc và nhàm chán.

trung thu do choi tuoi tho

Ảnh: Kim Thủy

Đáng chú ý, nếu nhìn vào hệ thống lễ hội truyền thống Việt Nam, có thể thấy rất ít lễ hội được dành riêng cho trẻ em. Phần lớn các nghi lễ cổ truyền, từ Tết Nguyên đán, lễ hội đền chùa đến các lễ hội nông nghiệp, đều gắn liền với tín ngưỡng, tâm linh hay đời sống lao động của người lớn. Trung thu, vốn khởi nguồn từ nghi lễ tri ân mùa màng, lại trở thành ngoại lệ hiếm hoi qua nhiều biến chuyển lịch sử – văn hoá. Chính sự chuyển hoá này khiến Trung thu nói chung và lồng đèn nói riêng có vị trí đặc biệt: vừa kế thừa truyền thống nông nghiệp – tín ngưỡng, vừa trao cho trẻ em một không gian lễ hội riêng, nơi chúng trở thành trung tâm của niềm vui và sự yêu thương.

Ngay cả trong bối cảnh hiện đại hoá, khi những chiếc đèn nhựa phát nhạc, chạy pin đang dần lấn át đồ chơi thủ công, lồng đèn Trung thu truyền thống vẫn giữ được sức hấp dẫn đặc biệt. Với nhiều người trưởng thành, chỉ cần nhìn thấy ánh sáng lung linh từ chiếc đèn ông sao cũng đủ để ký ức tuổi thơ ùa về. Với trẻ em hôm nay, lồng đèn không chỉ là trò vui mà còn là “điểm chạm” với truyền thống, nhắc nhở về cội nguồn và sự tiếp nối của bản sắc văn hoá dân tộc. 

Thực hiện: Thùy Như


Xem thêm: 

Tết Trung Thu trong văn hóa các nước Châu Á

Đồ chơi trẻ thơ – Ký ức rực rỡ

Ý nghĩa lễ Vu Lan trong truyền thống Phật giáo