Mặc dù đời sống xã hội không ngừng phát triển, các giá trị di sản văn hóa Nam Bộ, từ kiến trúc đến vật dụng hàng ngày, vẫn được cộng đồng gìn giữ. Minh chứng rõ nét cho điều này là sự hiện diện của những hiện vật như quần áo cưới, nón cưới truyền thống được lưu giữ cẩn thận tại các bảo tàng và nhà từ đường. Trong số đó, chiếc nón cụ – một dạng thức phục sức xưa – nổi lên như một chứng nhân lịch sử đang dần bị lãng quên.
Vốn là một phụ kiện được sử dụng phổ biến hằng ngày, nhưng do thị hiếu xã hội thay đổi, nón cụ chỉ còn hiện diện trong những dịp đặc biệt và đến khoảng cuối thập niên 1970 thì dần biến mấy. Trong quá trình điền dã và tìm hiểu hiện vật, tôi có dịp khảo sát tại các tỉnh như Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai hay xa hơn là các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Ở những nơi này vẫn còn nhiều gia đình lưu giữ chiếc nón cụ. Ví dụ tại Tiền Giang, có nhà giữ đến bảy cái đựng trong hộp thiếc một cách trân trọng, hay một nhà tại Kiên Giang cất giữ ba, bốn cái có tuổi đời lên đến trăm năm.

Hiện vật nón cụ.

Hiện vật nón cụ.
Nón cụ (hay tục gọi là nón cựu hoặc nón cậu) được làm bằng mô, có vành rộng, là phụ kiện phổ biến của nữ giới miền Nam từ thế kỷ XX trở về trước. Dù sau đó kiểu nón này dần vắng bóng, song vẫn được xem là một kiểu thức phục sức mang tính lễ nghi trong đám cưới. Nhìn chung, nón cụ dùng trong cưới hỏi ở giai đoạn này có cấu trúc tương đồng nhau, chủ yếu được đặt làm hoặc mua trực tiếp để phục vụ nhu cầu cụ thể. Sang thế kỷ XXI, nón cụ gần như không còn được sử dụng phổ biến nữa mà chủ yếu tồn tại với tính chất “cổ lệ”.
Đặc điểm của nón cụ
Thông qua các hiện vật nón cụ còn sót lại, chúng ta có thể phân tích cấu trúc và trang trí của chúng một cách chi tiết. Về tổng thể, nón có hình dáng đặc trưng, trông giống cái xửng hấp, với miệng nón rộng hơn phần đỉnh một chút. Kết cấu nón tinh xảo, với bộ khung được đan nhiều lớp khít khao và phần lá lợp nhuyễn. Bộ sườn nón cơ bản gồm ít nhất ba lớp sườn nhỏ: Sườn mê: có dạng hình mắt cáo; Sườn ngang và Sườn dọc. Các lớp sườn này được làm khít và nhặt để vừa giữ chắc hình dáng, vừa là giá đỡ cho lớp lá lợp bên trên.
Phần đảnh nón trên cùng được xử lý tỉ mỉ. Theo cách lợp truyền thống, một khoảng tròn nhỏ đường kính khoảng 10cm ở tim nón sẽ được chừa ra, vì lá không thể lợp kín điểm này. Để vừa tăng tính thẩm mỹ vừa chống thấm nước, người thợ thường tra lên đó một miếng đồi mồi. Một số ít hiện vật khác được gắn một miếng đồng mỏng hình tròn thay thế. (Đến thế kỷ XX, nón cụ chủ yếu dùng trong dịp lễ, ít khi dùng đi mưa do độ vững kém hơn nón lá.)

Nón cụ với quai nón bằng đồi mồi.
Quai nón được làm từ nhiều chất liệu như vải, sừng, đồng, nhưng phổ biến nhất là hai loại đặc trưng: Nón cụ quai tơ: thường chuộng màu đỏ, vàng hoặc ngũ sắc. Nón cụ quai đồi mồi. Cả hai loại quai này đều thường thấy trong các đám cưới. Móc nón thường được chế tác từ bạc hoặc vàng, với những gia đình sang trọng có thể gắn thêm đá quý. Móc được dùng để cài vào dây trên thân nón. Đối với nón quai tơ, móc nón thường có dạng như sợi anh lạc. Bên trong lòng nón là phần Sua nón, được kết bằng tay trông như một cái rế nồi hình trụ tròn. Đây là bộ phận trực tiếp tiếp xúc và ôm sát vào đầu, giúp định vị và cố định nón khi đội.

Nón cụ quai tơ cho nữ giới. Ảnh: Tư liệu
Lòng nón cụ là một bức tranh thu nhỏ chứa đựng nhiều ước vọng tốt lành, được thêu/vẽ với các đề tài phong phú: Biểu tượng phúc lộc: Tam đa, Phú – Thọ – Đa nam. Linh vật: Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng). Bảo vật: Bát bửu. Chữ cách điệu: Các mỹ tự (chữ Hán mang ý nghĩa tốt đẹp) thêu kiểu chữ triện, phổ biến nhất là Phước – Lộc – Thọ, Song Hỷ. Họa tiết đơn giản: Ở các loại nón bình dân hơn, thường thấy các họa tiết như mặt cáo, trái trám.

Chi tiết nón cụ, tranh vẽ của trường Mỹ thuật Gia Định.
Vai trò văn hóa và tập tục xoay quanh nón cưới
Theo phong tục miền Nam, nhà trai có trách nhiệm chuẩn bị trọn bộ y phục cưới (thường theo cặp) làm sính lễ cho nhà gái, bao gồm: một cặp nón, một cặp áo và một cặp giày. Trong đó, cặp nón cưới là một vật phẩm không thể thiếu. Những bộ y phục này thường được nhà trai đặt may hoặc mua sắm trước từ các cửa hàng chuyên bán đồ hôn lễ. Do dịch vụ cho thuê chưa phổ biến, các gia đình khá giả thường phải bỏ tiền ra mua mới.

Minh họa một lễ cưới miền Nam xưa. Ảnh: Tư liệu
Nón dùng cho đám cưới được chuẩn bị sẵn, đựng trong hộp thiếc, giấy cứng hoặc vải gấm để nhà trai dễ dàng và trang trọng mang sang trình lễ nhà gái (trình y phục cô dâu sau lễ Điện nhạn). Ngoài Tân An, các địa phương khác còn nổi danh với nghề làm nón và dép cưới gồm có: Gò Công, Cần Thơ. Tuy nhiên, đến nay, những người thợ còn giữ được kỹ thuật làm các mẫu nón cụ truyền thống là rất hiếm.

Bộ đồ cưới xưa với hai lớp áo, trang sức vòng vàng, nón cụ. Ảnh: Tư liệu
Đối với những gia đình không đủ điều kiện mua nón mới, một tập tục đẹp mang tên “thỉnh nón”, hay còn gọi là “thỉnh đồ cưới” đã ra đời (“thỉnh” nghĩa là mượn một cách trân trọng). Theo tục này, khi trong làng xóm có đám cưới, những người tá điền hoặc gia đình ít của thường đến mượn đồ cưới tại nhà các chủ điền hoặc những hộ khá giả – những nơi đã sắm sẵn bộ lễ phục. Sau khi kết thúc lễ, họ phải giữ gìn cẩn thận và “hườn” (trả lại) nguyên vẹn cho chủ sở hữu. Tập tục này đảm bảo mọi người đều có thể thực hiện đầy đủ nghi thức trong ngày trọng đại, thể hiện tinh thần tương thân tương ái và sự gắn kết cộng đồng sâu sắc, đặc biệt phổ biến ở các tỉnh như Tiền Giang, Long An và Bến Tre.

Phụ nữ Nam Kỳ đội nón cụ quai tơ, thập niên 1870. Nguồn: Gsell, Émile
Sau năm 1945, khi các hôn lễ truyền thống dần thu hẹp, làng nghề sản xuất nón cưới và may đồ cưới cũng theo đó mà suy tàn. Trong giai đoạn 1945-1975, tục lệ này chỉ còn được duy trì bởi những gia đình nặng lòng với nếp xưa, và kiểu đội nón cũng có sự giao thoa: cô dâu thường đội vòng hoa hoặc mấn trước, rồi mới phủ lên trên chiếc nón cụ trong nghi thức rước dâu. Đến thập niên 1980, chiếc nón cụ đã chính thức hoàn toàn vắng bóng trong đời sống hôn lễ đương đại, đánh dấu sự chấm dứt của một nét văn hóa trang phục đặc sắc.

Một lễ cưới ở miền Nam trước 1945. Ảnh: Tư liệu
Đến nay, chiếc nón cụ hầu như chỉ còn thấy trong các bộ sưu tập của viện bảo tàng trong và ngoài nước, hoặc được các gia đình nâng niu gìn giữ như một kỷ vật thiêng liêng theo thời gian. Sự thay đổi về thị hiếu và văn hóa trang phục đã khiến cho biểu tượng một thời của người phụ nữ Nam Bộ, đặc biệt trong ngày trọng đại, dần rơi vào lãng quên. Thế nhưng, có một tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, giới trẻ bắt đầu quay về tìm hiểu và trân quý những giá trị di sản đang bị mai một. Công chúng, đặc biệt là người trẻ, đã được tiếp cận với những câu chuyện sinh động về nón cụ và các vật phẩm truyền thống khác thông qua loạt chương trình Đám cưới Nam Kỳ, những chuyến điền dã xuyên miền Tây Nam Bộ, hay cuốn sách chuyên khảo Huê diện – Lược khảo y trang phục sức Nam Kỳ. Những nỗ lực này không chỉ thể hiện một tấm lòng hoài cổ, mà còn là một hành động thiết thực nhằm bảo tồn và truyền tải vẻ đẹp tinh túy trong văn hóa Nam Bộ đến thế hệ trẻ, thắp lên hy vọng về sự hồi sinh của các di sản trong dòng chảy hiện đại.
Thực hiện: Tử Yếng Lương Hoài Trọng Tính – Nhà nghiên cứu đam mê tìm hiểu về văn hóa lịch sử Việt Nam dưới triều Nguyễn và vùng Nam Bộ.
Xem thêm:
Ý nghĩa lễ Vu Lan trong truyền thống Phật giáo
Công Thần Miếu Vĩnh Long: Nơi di sản được gìn giữ bằng tâm thành