Nghịch lý của sự vĩnh cửu: Khi tái thiết trở thành một cách bảo tồn

Không đơn thuần chỉ là hành động giữ lại, bảo tồn di tích còn là tái tạo ý nghĩa và khôi phục mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại. 

Kiến trúc là một trong số ít những hiện vật văn hoá được tạo ra để con người sinh sống, sử dụng và truyền qua nhiều thế hệ, góp phần quan trọng vào việc hình thành bản sắc cộng đồng và khu vực. Trong lịch sử, mỗi công trình là một tuyên ngôn về tư tưởng, quyền lực và gu thẩm mỹ của thời đại, đồng thời là ký ức vật chất của văn hoá. Thế nhưng, chính tuổi thọ kéo dài của kiến trúc lại tạo nên một nghịch lý: khi một công trình được trùng tu, sửa chữa, hay thậm chí tái thiết hoàn toàn thì phần nào của nó còn liên hệ với công trình gốc?

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Lâu đài Osaka. Ảnh: Luka Peternel

Nghịch lý này lần đầu được nhắc đến trong tác phẩm Cuộc đời của Theseus của Plutarch – triết gia lỗi lạc sống dưới thời La Mã. Ông kể rằng người Athens đã thay thế dần từng tấm ván trên con tàu của Theseus để bảo tồn và gìn giữ ký ức về người anh hùng của họ. Từ đó, các triết gia bắt đầu tranh luận sôi nổi: nếu toàn bộ vật liệu đã được thay đổi, con tàu ấy còn là chính nó không? Về sau, Thomas Hobbes tiếp tục mở rộng vấn đề khi đặt ra giả định thú vị: nếu những tấm ván cũ được ghép lại ở nơi khác, thì đâu mới là con tàu nguyên bản?

Những câu hỏi này buộc người làm công tác bảo tồn các di sản kiến trúc phải suy ngẫm: điều gì làm nên bản sắc của một thực thể – vật liệu cấu thành, hình thức, công năng, hay ký ức và giá trị mà cộng đồng gắn vào nó? Đây không chỉ là một câu hỏi triết học mà còn là trăn trở nghề nghiệp mang tính thực tế: qua mỗi dự án trùng tu, chúng ta đang cố gắng giữ lại điều gì của công trình di sản?

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Nghịch lý Theseus được xem là một trong những thí nghiệm tư duy vô cùng hấp dẫn. Ảnh: Tư liệu

Vĩnh cửu và phù du trong nghi lễ dời đền Ise Jingu

Nằm trong vùng rừng nguyên sinh rộng lớn tại tỉnh Mie, Nhật Bản, Ise Jingu là quần thể đền thờ quan trọng của Thần đạo, nơi thờ nữ thần Mặt Trời Amaterasu Ōmikami và thần nông nghiệp Toyouke Ōmikami. Dấu ấn nổi bật nhất của nơi này không nằm ở kiến trúc hay nghệ thuật xây dựng, mà là ở truyền thống tái kiến trúc định kỳ qua chuỗi nghi lễ Shikinen Sengū.

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Bức tranh mô tả việc di dời đền Ise Jingu. Ảnh: Utagawa Kuniyoshi

Truyền thống này bắt đầu ít nhất từ năm 690 dưới thời hoàng đế Tenmu, khi kiến trúc tại Naikū (Inner Shrine) được ghi lại là tái tạo lần đầu. Theo đó, cứ mỗi 20 năm, toàn bộ các công trình chính tại Ise như Naikū và Gekū (Outer Shrine) sẽ được xây dựng lại hoàn toàn trên khu đất liền kề, sau đó thần linh sẽ được chuyển sang công trình mới thông qua những nghi lễ chuyển giao rất trang nghiêm. 

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Đền Ise Jingu. Ảnh: Bernhard Scheid

Khoảng thời gian 20 năm giữa các nghi lễ Shikinen Sengū được lấp đầy bởi một quá trình tái thiết và chuẩn bị xây dựng kéo dài, bao gồm khai thác nguyên liệu, chế tác và vô số nghi lễ phụ lớn nhỏ, đòi hỏi sự tham gia của cả cộng đồng địa phương. Chẳng hạn, việc chuẩn bị gỗ tuyết tùng cho công trình mất khoảng 8 năm do người ta chỉ được khai thác từ các cánh rừng lân cận thuộc diện quy hoạch phục vụ cho đền. Sau đó, gỗ được ngâm dưới nước khoảng 2 năm để loại bỏ nhựa và ổn định cấu trúc, rồi phơi ngoài trời thêm 1 năm trước khi bắt đầu chế tác. 

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Quá trình vận chuyển gỗ qua thành phố Ise đến Naiku và Geku cho lần tái thiết đền thờ năm 2013. Ảnh: Tawashi2006

Thậm chí, đến việc vận chuyển gỗ cũng được thực hiện như một nghi lễ cộng đồng: gỗ được khai thác, thả nổi trên sông, kéo về và dâng lên với nghi thức riêng biệt có tên gọi là lễ Okihiki (kéo gỗ) với hàng chục thị trấn quanh đền Ise Jingu cùng tham gia. Sau khi công trình mới hoàn thành, công trình cũ được tháo dỡ, nhiều bộ phận được tái sử dụng cho các cổng thần Torii hoặc phân phối tới các đền thờ khác, theo tinh thần không bỏ gỗ thánh. 

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Ảnh chụp từ trên cao của Naikū (cũ và mới). Ảnh: Teruo Honda

Việc tái thiết theo chu kỳ này dựa trên khái niệm tokowaka, nghĩa là “sự trường tồn luôn tươi mới”: duy trì cảm giác mới mẻ mà không từ bỏ hình thức cổ điển. Thay vì bảo tồn kết cấu vật chất bằng mọi giá, Ise giữ gìn hoa văn, tỷ lệ, kỹ thuật ghép nối và nghi lễ. Kết quả là một nghịch lý được tạo ra với chủ đích rõ ràng, công trình mang vẻ đẹp vừa cổ kính vừa trẻ trung, vừa nguyên bản vừa được đổi mới. Nhìn nhận theo cách này, việc dời đền Ise Jingu mỗi 20 năm đã định hình lại vấn đề Con tàu Theseus. Bản sắc ở đây không được neo giữ trong vật liệu bất biến mà trong quá trình kiến ​​trúc liên tục – một tiến trình không gián đoạn về kỹ thuật, lâm nghiệp, nghi lễ và sự công nhận của công chúng. Giá trị của đền thờ nằm ​​ở chuỗi truyền thừa khi: các kỹ thuật xây dựng mộc truyền thống – thứ vốn đã có thể bị mai một nếu không có nhu cầu xây dựng ngôi đền mới, được truyền lại qua nhiều thế hệ; gỗ thiêng được quy hoạch, khai thác và sử dụng một cách có ý thức. Sự bền bỉ của kiến ​​trúc đạt được bằng cách làm mới vật chất để những thứ phi vật chất như lòng sùng kính và nghề thủ công có không gian để phát triển.

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Lần tái thiết gần nhất – lần thứ sáu mươi hai, được hoàn thành vào năm 2013, và lần tái thiết tiếp theo dự kiến ​​diễn ra vào năm 2033. Ảnh: Nakagita Yoshiaki

Việc tái thiết đền Ise Jingu tương tự như những chu kỳ hiện hữu trong cuộc sống thường nhật: hoa anh đào nở rộ mỗi mùa xuân, những cánh đồng lúa được thu hoạch và gieo trồng lại. Ise mang đến nhịp điệu theo mùa qua hình thái của một công trình kiến ​​trúc – thay đổi để không bị thay đổi. Qua đó, nghịch lý này cũng đề xuất một góc độ bảo tồn mới mẻ: các công trình không tồn tại bằng cách chống chọi với thời gian, mà chuyển động cùng thời gian thông qua một quá trình tái thiết nghiêm ngặt.

Bảo tồn kiến trúc lễ hội tại Hồng Kông

Nếu Ise Jingu thể hiện hình mẫu bảo tồn được thiết chế hóa và thiêng liêng hóa, nơi sự tái sinh được quy định nghiêm ngặt bằng lịch trình, nghi lễ và quyền lực tôn giáo, thì tại Hồng Kông, việc bảo tồn thông qua tái thiết lại xuất hiện trong một dạng văn hóa quần chúng linh hoạt hơn, gắn với lao động cộng đồng và ký ức đô thị.

Tại đây, trong các lễ hội dân gian, đặc biệt là lễ hội Thiên Hậu của các làng chài ven biển, những nhà hát tre tạm thời sẽ được dựng lên để tổ chức trình diễn Kinh kịch, cầu nguyện mưa thuận gió hòa, rồi sau đó tháo dỡ hoàn toàn. Đến mùa sau, chúng lại mọc lên, trên cùng mảnh đất, bằng cùng những kỹ thuật xây dựng, bởi cùng những nhóm thợ thủ công địa phương xây dựng. Những công trình “phù du” ấy không tồn tại như vật thể cố định, mà như một tiết mục sống mà chính quá trình dựng, tháo và tái dựng đã trở thành linh hồn của di sản.

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Nhà hát tre trong lễ hội Thiên Hậu đang được xây dựng. Ảnh: Chong Fat

Cấu trúc của nhà hát tre không theo bản vẽ cứng nhắc mà dựa vào tri thức phi văn bản của những người thợ giàn giáo – nghề truyền thống đặc trưng của Hồng Kông, vốn gắn bó với quá trình xây dựng các tòa nhà cao tầng trong thế kỷ XX. Kỹ thuật ghép tre, buộc dây gai, phân chia tải trọng được lưu truyền bằng kinh nghiệm và sự phối hợp tập thể, không qua giáo trình hay sơ đồ. Chính việc lặp lại hàng năm đã giúp kỹ thuật dựng tre được duy trì và phát triển, những lớp thợ trẻ tiếp tục học nghề từ các bậc tiền bối bởi cộng đồng vẫn luôn tồn tại nhu cầu – một chuỗi truyền thừa sống động tương tự như ở đền Ise Jingu, nhưng phi chính thống và mang tính cộng đồng nhiều hơn.

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Nhà hát tre Tây Cửu Long ở Hồng Kông năm 2014. Ảnh: TungCheung

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Bên trong nhà hát tre Tây Cửu Long ở Hồng Kông năm 2014. Ảnh: TungCheung

Bên cạnh các nhà hát tre, Vũ điệu Rồng Lửa Tai Hang trong dịp Tết Trung Thu là minh chứng khác cho cách mà ký ức văn hóa được duy trì qua sự tái tạo. Con rồng dài hơn sáu mươi mét được kết từ khung mây, rơm và dây thừng, gắn khoảng 12.000 que hương đang cháy, được cả khu phố cùng nhau chế tác vào đầu mỗi năm. Khi các thanh niên địa phương học cách ngâm rơm, buộc khung, xỏ hương và diễu hành, họ không chỉ tái tạo một di sản mà còn tái hiện cả ký ức tập thể – ký ức về sự đoàn kết, hương khói và về chính không gian đô thị mà họ đang sống và sinh hoạt hằng ngày.

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Cấu trúc tre múa rồng lửa Tai Hang. Ảnh: Jonathan Yeung

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Cấu trúc tre múa rồng lửa Tai Hang. Ảnh: Jonathan Yeung

Không giống như Ise Jingu – nơi sự liên tục được duy trì bằng tính chuẩn xác và những nghi lễ, di sản của Hồng Kông được duy trì qua tính biến động và cộng đồng. Ở đây, “tính nguyên bản” không nằm trong vật thể hay hình thức, mà trong thực hành tập thể và những ký ức được chia sẻ. Việc làm lại, tháo dỡ và dựng lên của các di sản kiến trúc như thế này tại Hồng Kông được đánh giá là một hình thức sáng tạo văn hóa, biến kiến trúc trở thành phương tiện gìn giữ bản sắc đô thị và nghề thủ công, dù chỉ tồn tại vài ngày mỗi năm nhưng thành công tạo nên sự tiếp biến văn hóa.

Khi ký ức được phục dựng

Ngay cả khi vật thể được phục dựng hoặc di dời, nó vẫn có thể mang theo ký ức văn hóa. Tái thiết, ở nghĩa này, không phải là sự thay thế, mà là khôi phục mối quan hệ giữa con người và địa điểm, giữa quá khứ và hiện tại. Những thành phố từng trải qua biến động – chiến tranh, hiện đại hóa hay đứt gãy lịch sử, đã nhiều lần chứng minh rằng di sản có thể được hồi sinh không bằng vật liệu, mà bằng ý niệm và ký ức mà nó chứa đựng.

Tại Nhật Bản, Lâu đài Osaka là một minh chứng điển hình cho ký ức có thể tồn tại vượt qua vật thể. Được khởi dựng vào năm 1597 dưới thời Toyotomi Hideyoshi, công trình là biểu tượng quyền lực của một kỷ nguyên quân phiệt. Qua hơn bốn thế kỷ, lâu đài đã nhiều lần bị phá hủy và dựng lại sau chiến tranh, hỏa hoạn và thiên tai. Phiên bản hiện nay được phục dựng bằng bê tông cốt thép vào thế kỷ 20 và trùng tu lớn vào năm 1997, về mặt vật chất hầu như không còn chút nguyên gốc nào. Thế nhưng, trong ký ức tập thể của người dân, nó vẫn là Lâu đài Osaka bởi hình ảnh tháp chính uy nghi, vị trí trung tâm trong đường chân trời thành phố. Ở đây, yếu tố nguyên bản không còn là câu chuyện của chất liệu, mà là của ký ức và biểu tượng được tái hiện.

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Lâu đài Osaka năm 1865. Ảnh: Sưu tầm

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Lâu đài Osaka ngày nay. Ảnh: Luka Peternel

Cũng mang tinh thần ấy, cổng Vĩnh Định Môn ở Bắc Kinh kể lại một hành trình khác của sự hồi sinh. Là cổng phía Nam của Ngoại thành được xây dựng từ năm 1553, công trình từng bị phá hủy vào thập niên 1950 khi thành phố mở đường cho hiện đại hóa giao thông. Nửa thế kỷ sau, vào giữa những năm 2000, trong nỗ lực tái định hình trục nghi lễ Bắc – Nam – mạch xương sống của đô thị cổ, cổng được dựng lại trên nền đất cũ. Bản mới không còn là kiến trúc nguyên thủy, nhưng vẫn giữ trọn chức năng biểu tượng và vai trò định hướng trong không gian đô thị. Việc tái lập vị trí của cổng Vĩnh Định Môn chính là cách Bắc Kinh hồi sinh di sản và ký ức cộng đồng. 

tu duy bao ton hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Tháp cổng và tháp canh Vĩnh Định Môn năm 1922. Ảnh: Osvald Sirén

hien dai den ise jingu West Kowloon bamboo theater in Hong Kong Tai Hang osaka castle vinh dinh mon gate

Cổng Vĩnh Định Môn sau khi được phục dựng. Ảnh: Charlie Fong

Mỗi công trình, theo cách riêng của mình, đều trả lời cho nghịch lý con tàu của Theseus: đâu là ranh giới giữa cũ và mới, giữa nguyên bản và phục dựng? Có lẽ, điều làm nên bản gốc không nằm ở vật liệu hay tuổi đời, mà ở ý nghĩa được cộng đồng công nhận và ở những ký ức không ngừng được truyền lại. Bảo tồn di sản nói chung hay các công trình lịch sử nói riêng, trong tinh thần đó, không còn là hành động đóng băng quá khứ, mà là một tiến trình sống – nơi ký ức được tái tạo, đổi mới và tích lũy qua từng lần tái thiết. 

Dĩ nhiên, vẫn luôn có những quan điểm cho rằng bảo tồn đích thực phải gắn liền với việc giữ trọn vẹn công trình gốc – từng khối vật liệu, từng chi tiết cấu trúc, như cách bảo vệ một chứng tích của thời gian. Nhưng trong câu chuyện bảo tồn được nhìn qua lăng kính tái thiết, không có đúng hay sai tuyệt đối, cũng không có một khuôn mẫu chuẩn mực. Mỗi cách làm phản ánh một cách hiểu khác nhau về cốt lõi của di sản: là vật chất, kỹ thuật, hình thức hay ký ức mà cộng đồng cùng chia sẻ?

Điều quan trọng hơn cả là giữ được tinh thần trung tâm – phần hồn khiến di sản có ý nghĩa trong đời sống con người. Nếu phần cốt lõi ấy vẫn được gìn giữ, thì dù hình thức có thay đổi, di sản vẫn tiếp tục trường tồn. Hơn hết, góc nhìn về tái thiết như một phương thức bảo tồn là ý tưởng vô cùng thú vị và đáng suy ngẫm: nó không phủ định quá khứ, mà mở ra một tương lai khác cho ký ức – nơi di sản có thể tiếp tục sống, chuyển hóa và thích nghi cùng thời đại. Biết đâu, đó chính là con đường mới cho nhiều công trình và cho chính khái niệm bảo tồn trong thế kỷ này.

Thực hiện: Thùy Như


Xem thêm: 

Resort và khách sạn Bali: Kiến trúc xanh bảo tồn đảo ngọc

Từ Hoa Lư đến Huế: Khi địa thế quyết định quốc vận

Bình phong: Lịch sử của biểu tượng nội thất Á Đông